đám cai ngục đi ra phía cửa lớn của sân trong. Blackthorne là người cuối
cùng. Khác với những người tù kia, người ta đưa cho anh một cái khố,
kimono bằng vải bông và đôi guốc có quai da. Và lính gác của anh là những
Samurai.
Anh đã quyết định chạy trốn vào lúc đi qua cổng nhưng khi đến gần
ngưỡng cửa, đám Samurai vây chặt anh lại. Họ cùng ra. Một đám đông
đang ngó nhìn, sạch sẽ và diêm dúa, cầm dù màu đỏ thắm, màu vàng, màu
hoàng yến. Một người đã bị trói vào cây thập ác và cây thập ác đã bị kéo lên
không. Và bên cạnh mỗi cây thập ác có hai eta đứng đợi, ngọn giáo dài của
chúng lấp loáng trong ánh mặt trời.
Bước đi của Blackthorne chậm lại. Đám Samurai áp sát lại gần hơn, thúc
anh đi nhanh. Anh mụ mẫm nghĩ thà chết ngay lúc đi, thật nhanh chóng,
còn hơn, và anh nắm chặt tay lại, sẵn sàng lao vào thanh kiếm gần nhất.
Nhưng anh không bao giờ có được cơ hội, vì bọn Samurai đã quay ra khỏi
pháp trường, đi tới vùng ngoại ô hướng về phía các đường phố dẫn vào
trong thành phố và tới lâu đài Blackthorne lặng lẽ đợi, hầu như nín thở,
muốn biết chắc sự thể thế nào. Họ đi qua đám đông, đám đông lùi lại và cúi
chào rồi sau đó họ đi vào một đường phố và bây giờ thì không còn có thể
nhầm lẫn được nữa.
Blackthorne cảm thấy mình như sống lại.
Khi đã nói được nên lời, anh hỏi:
"Chúng ta đi đâu thế này?" chẳng cần biết họ có hiểu lời anh nói không,
cũng chẳng cần để ý là anh đã nói bằng tiếng Anh.
Blackthorne cảm thấy đầu óc quay cuồng. Chân hầu như không chạm đất,
quai guốc không đến nỗi khó chịu lắm, áo kimono chạm vào da thịt không
phải là không thú vị. Thật ra là rất dễ chịu nữa kia, anh nghĩ. Có lẽ hơi
thùng thình một chút nhưng vào một ngày đẹp trời như thế này... đúng là
thứ nên mặc trên boong lái.
"Lạy Chúa, lại được nói tiếng Anh thật là tuyệt vời", anh bảo đám
Samurai.
"Jesuma, tôi đã tưởng tôi chết rồi. Đây là cái mạng thứ tám của tôi bị mất.
Các ngài có biết không, hở các ông bạn? Bây giờ tôi chỉ còn một mạng nữa