ngợi “nhân văn – giai phẩm”. Cái người gầy còm (tức Hà Nhật) nói tới 18
lần “nhân văn”, còn người cao lớn nói 11 lần.
Hồi ấy cụm từ “nhân văn – giai phẩm” đồng nghĩa với “phản động”.
Mà dân quê thì không phân biệt được từ “nhân văn” sang trọng ấy với vụ
“nhân văn – giai phẩm”! Từ đó Hà Nhật bị “ghi vào sổ đen”. Hà Nhật có
yêu một cô giáo quê ở Nghĩa Đàn, miền Tây Nghệ An, cách Diễn Châu
khoảng 80 cây số, nhưng khi gia đình nghe nói thầy giáo này có dính tới
“nhân văn – giai phẩm” thì kiên quyết không gả. Chính người con gái ấy và
mối tình bị từ chối đã “cho” Hà Nhật bài thơ tình nổi tiếng Bài thơ tình của
người thủy thủ.
Bạn bè ở Huế
Có lẽ phải mất một cuốn sách dày để viết về văn nghệ sĩ ở Huế.
Không phải vì nhiều người mà vì tôi sống lâu năm ở Huế nên có rất nhiều
kỷ niệm, nhất là với các nhà thơ. Thời bao cấp cho tôi thấy điều này, thơ
không chỉ sinh ra ở chốn trăng hoa mây gió, mà thơ còn có ở ngay chỗ lo
toan, túng thiếu của con người.
Thời bao cấp tôi thấy các nhà thơ ở Huế đều sống rất vô tư. Vô tư nhất
có lẽ là nhà thơ Xuân Hoàng. Anh gặp ai cũng đọc thơ. Ngồi đâu cũng đọc
thơ. Đọc xong rồi véo vào đùi người nghe, bảo: “Có hay không? Có mới
không?”. Có lần, mấy cô hành chính Hội Văn nghệ tới nhà Xuân Hoàng ở
đường Hoàng Hoa Thám, gần sân vận động Huế, để kê khai tem phiếu.
Mấy cô bảo anh kê tên mấy đứa con để làm tem phiếu đầu năm. Anh gọi
con bé Nhật Lệ từ dưới bếp lên hỏi: “Mi tên chi hè?”. Đối với Xuân Hoàng,
ngay khi ở Đồng Hới, miền Nam chưa giải phóng, anh cũng không cảm
thấy có thời bao cấp. Ăn cái gì qua bữa là xong. Đối với anh chỉ có thơ mới
quan trọng. Còn lại tất cả nhờ vợ lo. Vợ anh là chị Nguyễn Thị Bình, từng
là Tỉnh Ủy viên, Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Bình Trị Thiên, chị giỏi việc
nước đảm việc nhà. Trời thương nhà thơ vô tư như Xuân Hoàng mới để chị
Bình lấy anh.