- Khi thiên hạ mới bắt đầu khởi sự thì tạm thời lập các chư hầu để đánh
Tần, nhưng việc mình mặc áo giáp, tay cầm gươm dáo gánh vác việc lớn,
ba năm xông pha ở chiến trường, diệt nhà Tần và bình định được thiên hạ
đều là công lao của các vị tướng, các quan văn võ và của Tịch này. Nghĩa
Đế tuy không có công, nhưng cũng chia đất đai mà phong vương cho ông
ta.
Các tướng đều nói :
- Phải đấy !
Hạng Vương bèn chia thiên hạ, lập các tướng làm vua các nước chư hầu.
Hạng Vương và Phạm Tăng lo ngại Bái Công sẽ lấy thiên hạ; nhưng trót đã
điều đình xong, không muốn bội ước, sợ chư hầu làm phản, cho nên bí mật
bàn nhau : đất Ba và đất Thục đường xá hiểm trở, nhà Tần đày người đến ở
đất Thục, bèn nói :
- Đất Ba và đất Thục cũng là đất Quan Trung (Vì bất đắc dĩ phải phong
vương cho Bái Công, lại phải phong ở Quan Trung theo lời giao ước, cho
nên hai người tìm cách “đày” Bái Công đi Ba và Thục, và nói rằng Ba và
Thục cũng là Quan Trung). Cho nên lập Bái Công làm Hán Vương cai trị
đất Ba, đất Thục và đất Hán Trung, đóng đô ở Nam Trịnh. Hạng Vương
chia Quan Trung làm ba phần, phong vương cho các tướng Tần đã đầu
hàng, để họ chẹn đường của Hán Vương.
Hạng Vương lập Chương Hàm làm Ung Vương, cai trị từ Hàm Dương sang
phía tây, đóng đô ở Phế Khâu. Trưởng sử Hân xưa làm quan coi ngục ở
Lịch Dương vốn có ơn với Hạng Lương; đô uý Đổng Ế trước đã khuyên
Chương Hàm đầu hàng nước Sở, cho nên Hạng Vương lập Tư Mã Hân làm
Tắc Vương, cai trị từ phía đông Hàm Dương cho đến Hoàng Hà, đóng đô ở
Lịch Dương; Đổng Ế được làm Địch Vương ,cai trị đất Thượng Quận, đóng
đô ở Cáo Nô. Hạng Vương để Nguỵ Vương là Báo làm Tây Nguỵ Vương,
cai trị đất Hà Đông, đóng đô ở Bình Dương. Thân Dương ở Hà Khâu là
người tôi yêu của Trương Nhĩ, đã lấy được quận Hà Nam, và đóng quân Sở
trên Hoàng Hà, cho nên được lập làm Hà Nam Vương , đóng đô ở Lạc
Dương.
Hàn Vương tên là Thành vẫn ở đất cũ, đóng đô ở Dương Định. Tướng nước