đời sau khi Hải quân Hoàng gia Anh giảm thiểu sự hiện diện từng
rộng khắp thế giới của nó nhờ tận dụng sức mạnh trên biển ngày
càng tăng của các đồng minh là Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ hiện cũng đang ở vị trí tương tự như của Anh 100 năm
trước. Hải quân Mỹ đã giảm được về số lượng tàu: từ khoảng 600
tàu trong thời Chiến tranh Lạnh, còn 350 trong những năm 1990,
đến 280 hiện tại, và có khả năng còn giảm tiếp xuống đến 250 trong
những năm và những thập kỷ tới, bởi ngân sách bị cắt giảm và chi
phí quá mức. Tương tự, nó cũng dựa vào các đồng minh trên biển
như hải quân Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, và Singapore. Hải quân
Mỹ đã công bố một tài liệu hồi tháng 10 năm 2007, “Chiến lược hợp
tác cho sức mạnh Hải quân thế kỷ XXI”, một chiến lược theo tinh
thần của Corbett (với sự nhấn mạnh vào việc hợp tác) nhiều hơn là
của Mahan (với sự nhấn mạnh vào sự thống trị). “Lợi ích quốc gia
của chúng ta”, tài liệu trình bày, được đáp ứng tốt nhất bằng cách
thúc đẩy một hệ thống toàn cầu hòa bình, bao gồm các mạng phụ
thuộc lẫn nhau về thương mại, tài chính, thông tin, luật pháp, con
người, và quản trị.” Như cách Hải quân Mỹ nhìn nhận, thế giới của
chúng ta đang ngày càng kết nối với nhau, với cư dân toàn cầu co
cụm lại thành khối linh động nằm gần các vùng biển, do vậy mà sẽ
dễ xảy ra những đổ vỡ, biến động lớn, chẳng hạn như những cuộc
tấn công không đối xứng và thiên tai. Kể cả những cuộc xung đột
lớn, tài liệu trình bày tiếp, cũng có thể rất tinh tế và bất đối xứng, ở
đây có một cuộc trao đổi nhỏ về các trận chiến thông thường (phi
hạt nhân) trên biển và trên đất liền. Sức mạnh hải quân ngày càng
tăng của Trung Quốc thậm chí còn không được nhắc đến. Tinh thần
“an ninh tập thể” hiện diện ở khắp mọi nơi. “Không một quốc gia nào
có đủ nguồn lực để một mình đảm bảo được sự an toàn […] cho lĩnh