phía tây là khu núi Hijaz. Từ “Najd” nghĩa là vùng đất cao. Độ cao
trung bình ở đây từ 1.500 m ở phía tây, giảm xuống còn 750 m ở
phía đông. Vào cuối thế kỷ XIX, nhà thám hiểm người Anh Charles
Doughty mô tả Najd như sau:
Chiếc bơm nước phát ra âm thanh inh tai, tiếng ồn gây ra bởi
nước rơi làm cho tôi tưởng đâu như là tiếng rít của một mặt đất
khô tới mức mà nước rơi làm bật ra từ đó những tiếng than thở
đau đớn. Ngày và đêm người ta nghe thấy nó khôn nguôi trong
khắp các làng Najd, bởi vì không khi nào công việc bơm nước
bị đứt đoạn. Ngay cả sức lực của những con bò cũng không đủ
để đào được cái giếng với độ sâu cần thiết, đến nỗi người xứ
này thích nói câu, “nếu ông trời đã không tạo ra đám lạc đà, thì
vùng Najd này sẽ vẫn là nơi không có người ở.”
Najd xứng danh là vùng trái tim của thứ văn hóa mà Hodgson
từng gọi là du mục dựa trên lạc đà. Chính là từ thành trì này mà
những chiến binh Wahhab cuồng tín từ nhiều thế kỷ cận đại đã tung
những cuộc tập kích ra mọi phương mọi hướng. Mặc dù các thành
phố thánh địa Mecca và Medina hàm ý lòng mộ đạo Muslim (Hồi
giáo) trong đầu óc của người phương Tây, sự thật lại là điều gì đó
ngược lại: chính việc hành hương của những người Hồi giáo đến từ
khắp các nước Hồi giáo là một thứ chủ nghĩa thế giới đối với những
thành phố linh thiêng này và đối với cả vùng Hijaz bao quanh. Mặc
dù những người Wahhab Najd đều coi những cuộc hành hương đó
là một dạng của đa thần giáo, ngoại trừ cuộc hành hương ở Kaaba
thuộc Mecca. “Với những cư dân trẻ tuổi và ở nơi đô thị của mình có
thiên hướng nhạy cảm tôn giáo đa dạng, vùng đất Hijaz chưa từng
bao giờ thực sự tuân thủ những quy tắc của Saudi và Wahhab”,
Bruce Riedel, một sĩ quan CIA viết. Nền văn hóa của Hijaz chủ yếu