khóa họp của Xô-viết tối cao Liên Xô đã thông qua Luật nghĩa vụ quân sự
phổ thông. Hồng quân đã hoàn toàn trở thành chính quy.
Như bây giờ chúng ta đã biết rõ, ngay cả đến khi chiến tranh bùng nổ
rồi, Anh và Pháp vẫn còn hy vọng đứng ngoài và xô đẩy Đức đánh nhau với
Liên Xô. Vì vậy, họ đã để cho Hít-le đánh bại Ba Lan một cách nhanh
chóng, họ tiến hành “cuộc chiến tranh lạ lùng”, ngồi chờ cuộc xung đột
giữa Liên Xô và Đức.
Cuộc tiến quân nhanh chóng của phát-xít Đức về phía Đông, nguy cơ
Tây U-crai-na và Tây Bê-lô-ru-xi-a bị chúng chiếm đã làm tăng thêm lòng
mong muốn của nhân dân lao động các vùng này được hợp nhất với các
nước Cộng hòa xô viết và đặt ra cho các Lực lượng vũ trang Liên Xô nhiệm
vụ chi viện các dân tộc anh em đó.
Giữa tháng Chín năm 1939, để bảo vệ các vùng này, Chính phủ Liên Xô
đã ra lệnh cho quân đội vượt qua biên giới và giải phóng Tây U-crai-na và
Tây Bê-lô-ru-xi-a. Béc-lin buộc phái đồng ý chấp nhận giới tuyến ở khoáng
đường ranh giới phía Đông của lãnh thổ nhân chủng Ba Lan.
Luân Đôn và Pa-ri lại đặt hy vọng vào Phấn Lan và bắt đầu xúi giục
Phần Lan chống lại Liên Xô. Âm mưu của Anh và Pháp lôi kéo E-xtô-ni-a,
Lát-vi-a và Lít-va vào chiến tranh chống Liên Xô bị thất bại. Trước áp lực
của các lực lượng dân chủ, mùa thu năm 1939, chính phủ các nước này đã
phải ký kết với Liên Xô hiệp ước tương trợ và để cho Liên Xô đặt những
đơn vị quân đội, sân bay và căn cứ hải quân tại một số địa điểm ở vùng Pri-
ban-tích. Như vậy là ngăn ngừa được Đức đánh chiếm các nước nhỏ này
vào lúc đó, và các nước này không thể bị dùng làm bàn đạp tiến công Liên
Xô.
Bộ dân ủy quốc phòng đã phải làm rất nhiều việc trong tình hình cuộc
xung đột quân sự đang chín muồi giữa Liên Xô và Phần Lan và trong quá
trình xung đột đó. Những cố gắng của Chính phủ Liên Xô nhằm giải quyết