dọc biên giới và cùng với các khu vực phòng thủ vững chắc và các đơn vị
biên phòng, trong trường hợp hết sức cần thiết, sẽ có thể bảo vệ việc điều
động lực lượng thê đội hai của các quân khu sát biên giới. Theo kế hoạch
động viên, các quân khu này được dành cho việc đó từ vài ba giờ cho đến
một ngày đêm.
Do nguy cơ cuộc xâm lược của nước Đức phát-xít ngày càng tăng, Bộ
dân ủy quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu không những đã bổ sung thêm
nhiều điểm vào kế hoạch tác chiến và kế hoạch động viên để đẩy lùi một
cuộc tiến công không thể tránh khỏi vào đất nước xô-viêt, mà, theo các chỉ
thị của Ban chấp hành trung ương Đảng và Chính phủ, còn thi hành cả một
loạt biện pháp rất quan trọng đề ra trong các kế hoạch này nhằm tăng cường
khả năng phòng thủ biên giới phía Tây của Liên Xô.
Ví dụ, từ giữa tháng Năm năm 1941, theo các chỉ thị của Bộ Tổng tham
mưu, đã bắt đầu di chuyển một loạt tập đoàn quân - tất cả đến 28 sư đoàn -
từ các quân khu trong nội địa đến các quân khu sát biên giới, mở đầu việc
thực hiện kế hoạch tập trung và triển khai bộ đội Liên Xô trên biên giới
phía Tây. Đầu tháng Sáu năm 1941, đã triệu tập gần 80 vạn quân hậu bị đi
tập huấn, và toàn bộ số quân này được bổ sung cho các quân khu sát biên
giới phía Tây và cho các khu vực phòng thủ vừng chắc của các quân khu
đó.
Ban chấp hành trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô còn tiến hành
hàng loạt biện pháp hết sức quan trọng khác nhằm nâng cao hơn nữa sự sẵn
sàng chiến đấu và khả năng chiến đấu của các lực lượng vũ trang, phát triển
cơ sở công nghiệp chiến tranh, củng cố khả năng quốc phòng nói chung.
Giữa năm 1941, tổng số quân của quân đội và hải quân lên tới trên 5 triệu
người, nhiều gấp 2,8 lần so với năm 1939.
Vào tháng Năm - tháng Sáu năm 1941, các tập đoàn quân 19, 21 và 22
từ các Quân khu Bắc Cáp-ca-dơ, Pri-vôn-giê và U-ran, quân đoàn bộ binh
25 từ Quân khu Khác-cốp được chuyển bằng đường xe lửa đến tuyến sông