ra, tại đây chúng tôi sẽ phải vượt sông Bắc Đô-ne-txơ. Chúng tôi giao cho
tập đoàn quân cận vệ 8 giữ vai trò chủ yếu trong việc này.
Theo sự tính toán của chúng tôi, công việc điều động bộ đội và chuẩn bị
trận đánh mới cần đến năm - sáu ngày đêm. Trong lúc báo cáo bằng điện
thoại với I. V. Xta-lin về tình hình trước mắt, tôi trình bày luôn đề nghị đó
của bản thân tôi và của cán bộ tư lệnh phương diện quân. Nhưng tình hình
lại một lần nữa không lấy gì làm phấn khởi: Phương diện quân Thảo
nguyên vẫn tiến hành những trận chiến đấu kéo dài để chiếm Khác-cốp, còn
Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ hoạt động ở chếch phía Bắc thì không
những không thu được thắng lợi, mà còn phải chịu đựng những trận phản
kích lớn của địch ở vùng Ác-tư-rơ-ca.
Xta-lin không hài lòng, nói chuyện một cách lạnh lùng, quở trách tôi và
bộ tư lệnh phương diện quân khá nhiều và xác đáng, nhưng cũng có đôi chỗ
không hoàn toàn có căn cứ. Tuy vậy, đề nghị của chúng tôi đã được chấp
nhận, và chúng tôi được phép bắt đầu chiến dịch trên khu vực mới vào ngày
27 tháng Tám.
Sau đó chuyển sang nói chuyện về tình hình ở Phương diện quân Nam.
Ở đây, tình hình thuận lợi hơn nhiều. Sau cuộc bắn chuẩn bị mãnh liệt của
pháo binh và không quân, tập đoàn quân xung kích 5 ngay ngày đầu tiến
công đã đè bẹp sự chống cự của địch, chọc thủng trận địa phòng ngự của
chúng và tiến được 10 ki-lô-mét.
Đêm 18 rạng ngày 19 tháng Tám, quân đoàn cơ giới cận vệ 4 được tung
vào đột phá, một ngày đêm tiến được 20 ki-lô-mét, tiến đến sông Crưn-ca,
chiếm bàn đạp ở đấy và uy hiếp con đường sắt Am-vrô-xi-ép-ca - Xta-li-nô.
Trong hai ngày tiếp theo, cánh quân xung kích của phương diện quân không
những đẩy lùi được nhiều đợt phản kích của bọn phát-xít, mà còn tiếp tục
phát triển cuộc tiến công, mở rộng diện đột phá. Do đó, lực lượng địch
chống chọi với Phương diện quân Nam ngay những ngày đầu chiến dịch đã
bị chia cắt thành hai phần, bị hở sườn ở khu vực ta đột phá.