vẽ một bức tượng y hệt mà dán tại chùa, nơi vách nhà Đông.
Bửa nọ ngài đi ngang qua bên vách, thấy tượng ấy liền khạc nhổ rồi bỏ đi.
Khi ngài ở tại xứ Mân Trung, có một người cư sĩ họ Trần, thấy ngài làm
nhiều việc kỳ thần, nên đãi ngài rất cẩn trọng.
Lúc ngài từ giã ông Trần cư sĩ mà đi qua xứ Lưỡng Chiết, ông muốn rõ tên
họ ngài, bèn hỏi rằng: "Thưa Hòa Thượng! Xin cho tôi biết họ ngài là chi,
sanh năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, và xuất gia đã bao lâu rồi."
Ngài đáp rằng: "Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ rằng ta chính là họ Lý, sanh ngày
mùng tám tháng hai. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải này mà để độ đời đó thôi.
Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết."
Ông Trần cư sĩ nghe noi như vậy, bèn thưa rằng: "Hoà Thượng đi đâu, nếu có
ai hỏi việc chi thì ngài trả lời làm sao cho hợp lý, chớ tùy thuận theo người
thì không khỏi bàng nhân dị nghị tiếng thị phi."
Ngài bèn đáp một bài kệ rằng:
Ghét thương phải quấy biết bao là,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục,
Bửa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm lòng này không quái ngại,
Tự nhiên chứng đặng Lục ba la
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng: "Bạch Hòa Thượng! Ngài có pháp hiệu hay
không?"
Ngài liền đọc bài kệ mà đáp rằng:
Ta có cái túi vải,
Rỗng rang không quái ngại;
Thâu vào Quan tự tại.
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng: "Hòa thượng đi đây có đem đồ hành lý hay không?"
Ngài đáp bài kệ:
Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa;