Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: "Muôn tượng chỉ bao la, song
một mảy trần chẳng lập, nhất chân trong pháp giới, trăm hạnh đều phân vân.
Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như chí lý, cho nên động tịnh đều là
pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chân, thì sẽ có ngày mau lên bờ
bỉ ngạn."
Đó là lời pháp ngữ của ngài phát ra những lý mầu nhiệm của thiền gia, để
bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa,
trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn
trí. Thiệt công phu của ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời
cũng vô cùng vô tận
Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì, niên hiệu Trinh Minh,
năm thứ hai, ngày mùng 3 tháng 3, ngài đối trước chúng nhân mà nói rằng:
"Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái Di Lặc mà
cúng dường cho đại chúng."
Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng thấy ngài
ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai nấy
thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.
Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của ngài, rồi
làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là: Định
Ứng Tháp.
Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trải mấy phen tang thương biến đổi, mà
công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi, bốn
mùa người đàn việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai
nghiêm.
Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi vô hạn đối
với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng tích nơi
đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người
đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa
dòng khổ hải.
Thiệt công đức của ngài không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết đặng.
Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền của ngài còn lưu trụ các
điện đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.