ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó tránh
khỏi luân hồi khổ thú.
Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân từ mà
dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham
sống sợ chết như ta vậy.
Những người có nhân hằng lấy con mắt từ mà quán xét, xem vạn vật với ta
đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhân ái
được như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại
nhiều kiếp được trường thọ là khác nữa."
Người ấy nghe ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân không dám
sát sanh loài động vật nữa.
Lại có một khi, ngài đương đi ngoài đường, tình cờ gặp một người nông phu
vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.
Ngài đi hối hả lại can rằng: "Phàm ở đời, có nhân thì có quả, không có sai
chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có ngày chúng
nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng kiếm
với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi
vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng."
Người nông phu nghe ngài nói như thế, liền cúi đầu đảnh lễ và nguyện trọn
đời không dám tái phạm nữa.
Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một ông sa di hỏi ngài rằng:
"Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của mình?"
Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: "Tâm là vật gì đâu mà ông phải tìm cho uổng
công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó ra thì không
thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên mới thành
ra vọng niệm như vậy. Nếu nhất chân của ta đặng yên tịnh rồi, thì toàn thể
như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ rệt. Chừng
đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng, thì có
vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục."
Ông sa di nghe ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính vô cùng, rồi
đảnh lễ mà từ giã.
Cách ít lâu ngài đi chơi, chợt thấy một ông sa môn còn nhiễm theo tục trần,