ngăn họ, nhưng bị đại bác nã vào, từng đoàn từng đoàn “đổ như những bức
tường”. Viên tướng Mãn tài nhất của Mãn Thanh là Tăng Cách Lâm Tấn
cũng phải đào tẩu. Mã Thanh đành phải xin hòa, nhưng không chấp nhận
những điều kiện họ cho là gắt quá của Anh Pháp, tiếp tục chiến đấu. Lúc đó
liên quân đã tới ngoại thành Bắc Kinh rồi. Viên tướng bảo vệ kinh đô, phi
ngựa ở mặt trận bị một viên đạn vào đầu té ngựa. Hàng ngũ rối loạn. Vua
Hàm Phong kinh hoảng bỏ cung điện đi ra “tuần du mùa thu” ở Nhiệt Hà
(Jéhal), sự thực là chạy trốn, giao trách nhiệm thương thuyết cho Cung thân
vương, và năm 1860, điều ước Bắc Kinh được ký kết.
Điều ước này ký với Anh Pháp y hệt điều ước Thiên Tân năm trước mà
chưa kịp thi hành, nghĩa là gồm những khoản chính dưới đây:
1. Công sứ Anh, Pháp đều được tự do cư trú ở Bắc Kinh.
2. Các giáo sĩ Anh và Pháp được tự do truyền giáo trong nội địa Trung
Hoa; nhân dân Anh, Pháp có tờ hộ chiếu thì được tự do du lịch trong nội
địa Trung Hoa.
3. Mở thêm nhiều thương khố nữa: Ngưu Trang, Đăng Châu, Đài Loan,
Viên Thủy, Triều Châu, Quỳnh Châu; đợi khi dẹp xong Thái Bình Thiên
Quốc thì sẽ mở thêm ba nơi nữa trên bờ sông Dương Tử: Quan trọng nhất
là Hán Khẩu…
4. Người dân Anh, Pháp mà phạm tội ở trên đất Trung Hoa thì do lãnh
sự của họ xử, nếu có tranh tụng giữa người Trung Hoa với người Anh, hoặc
với người Pháp thì quan lại Trung Quốc cùng xử lý với lãnh sự Anh hoặc
Pháp.
Quyền đó gọi là quyền lãnh sự tài phán.
5. Sửa lại chế độ quan thuế: Quan thuế phải do chính phủ
Trung Quốc cùng bàn rồi quyết định với công sứ Anh, Pháp.
Bây giờ (điều ước Bắc Kinh) thêm những khoản này nữa:
1. Mở thêm thương khẩu Thiên Tân.
2. Bồi thường cho Anh và Pháp mỗi nước 8.000.000 lạng bạc (trong
điều ước Thiên Tân chỉ bồi thường cho Anh 4.000.000 lạng, cho Pháp
2.000.000 lạng thôi).
3. Cắt đất Cửu Long ở bờ đối diện với Hương Cảng, nhường cho Anh.