Hải, Hán khẩu, trực thuộc trung ương chứ không thuộc tỉnh (1) ( Tổ chức
của Việt Nam xã hội chủ nghĩa y hệt vậy, chắc là theo Trung Cộng, mà
Trung Cộng đã dùng chính sách của Quốc dân đảng , nhưng đon vị huyện
của ta nhỏ quá, chỉ bằng một xã của họ, mà đơn vị huyện của họ bằng một
hai tỉnh của ta, một tỉnh của họ bằng một phần có khi cả 2-3 phần Bắc,
Trung, Nam của ta) Vậy, về chính thể thì phải nhận rằng đối với Trung Hoa
thời đó, rất tốt đẹp. Đó là trên lý thuyết . Cần phải xét thực hành nữa , xét
người lãnh đạo nữa. Lý thuyết hay mà người lãnh đạo không chịu thi hành
hoặc không đủ tư cách thì kết quả cũng hóa dở.
Người lãnh đạo
Chế độ thời huấn chính là chế độ đảng trị, nhưng sự thực là gia đình trị (
như nước ta dưới thời Ngô Đình Diệm)
Trong một hai năm đầu, Tưởng Giới Thạch còn dùng, khi thì Uông Ting
Vệ, ( hồi chưa đại tấn công Cộng sản), khi thì Hồ Hán Dân. Về sau ông chỉ
tin cậy mấy người rất thân của ông, : Trần Lạp Phu, Hà Ưng Khâm, Khổng
Tưởng Hi, Tống Tứ Văn ...dĩ nhiên Tống Mỹ Linh, vợ ông nữa.
Chúng ta hãy xét ông trước . Tiểu sử của ông , chúng ta đã biết qua rồi.
Trong số ba nhà cách mạng thời đó : Tôn văn, ông, Mao Trạc Đông thì ông
có tướng tốt hơn cả, trán cao, mắt rất sáng, vẻ oai nghiêm, lạnh lùng, mà lại
có nhiều nhân điện lôi cuốn quần chúng, đúng là một nhà lãnh đạo . Ông
cương quyết kiên nhẫn làm việc gì thì làm cho tới nơi, rất tự tín, can đãm
về tinh thần lẫn thể chất. Cho nên ta không thấy làm lạ rằng trong mười
năm đầu cầm quyền, ông được toàn dân ngưỡng mộ, kính phục, coi ông là
hiện thân của cách mạng của Trung Hoa nữa. Ông chống Nhật, ông tranh
đấu vơói các cường quốc phương Tây để bênh vực quyền lợi dân tộc.
Ông theo một giáo phái KiTô mà cũng theo Khổng Giáo ( như NGô Đình
Diệm) sống rất giản dị, khắc khổ nữa, tự chủ, không có ngoại tình, tự trọng
và trọng chữ tín ( coi vụ Tây An ở sau) . Nhưng ông độc tài, nghiêm khắc
quá, không cảm thấy nổi khổ của ngưuời khác, không thấy lầm lỗi của
mình, quá tự cao, tự đại.