Ông ít khi tha thừ ai trừ một vài quân nhân, vì chính ông là quân nhân ; giữ
được tình trong quân đội.
Tôn văn tin ở tài cầm quân của ông – mà cũng chỉ tin ở tài đó thôi – và ông
đã có công thắng các quân phiệt, rồi sau lại đuổi quân cách mạng Mao
Trạch Đông ra khỏi căn cứ Giang Tây, nhưng các nhà cầm quân Âu, Mỹ
đều chê ông về chiến thuật rất tầm thường . Chỉ biết binh pháp cổ của Tôn
Tử, hoặc của Napoléon thôi, Tệ nhất là Tưởng không lo đến sức khỏe , sự
ăn uống, đến tinh thần quân đội, để cho bọn tướng, tá chỉ huy, ăn cắp, ăn
hối lộ, ngược đãi lính tráng . Ông không biết rằng quân lính chết đói ( cuối
chiến tranh với Nhật) mà ra lệnh cho lính trước khi ra trận phải rửa mặt.
Ông bướng bỉnh, chỉ cho mình là phải thôi, nên không ai dám góp ý kiến
với ông hết.
Ông ghét Cộng sản nhất ( trái với Tôn Văn) năm 1941, Trong một diễn văn
bảo : « Điều quan trọng nhất đối với tôi là chận Cộng Sản hơn là chận Nhật
cho khỏi lan ra . Nhật chỉ là một vết thưong ngoài da. Cộng mới là vết
thương ở tim.
Tuy nhờ tây phương ( Mỹ, Pháp) nhiều mà ông ghét họ, rất ghét văn minh
của họ, chỉ đề cao đạo Khổng, đạo tam cương, ngũ thường ( coi mục Tân
sinh hoạt ở sau) Ông thích đọc Luận ngữ, Kinh dịch , Mạnh tử, rồi tới Le
Prince của Machiavel, Mein Kampf của Hitler.
Đoạn trên tôi đã tóm tắt những ý chính trong chương Chiang Kai – Shek (
185- 198) của J.J Brieux ( Edition du Seul – 1950) cuối chương đó, Brieux
viết :
- Năm 1945- Đồng minh thắng ( ....) Tưởng đã thắng Nhật , bãi bỏ các điều
ước bất bình đẳng, Trung Hoa thành một cường quốc, Nam Kinh và thượng
Hải cuồng nhiệt tiếp đón ông.
1948- ở Nam Kinh, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, dân chúng biểu
tình đòi hòa giải với Cộng, đuổi Mỹ đi, cả Tưởng nữa. Chỉ trong 3 năm ,
470 triệu người thấy rằng Tưởng “ chỉ là một nhà độc tài , không phải là
ngưòi bênh vực họ, không phải là người của họ, của dân chúng “.
Fairbank trong cuốn East- Asia – The modern transformation cũng bảo