vọt, rồi ba năm mất mùa liền (1959-1961) ông bảo dân dùng những
phương pháp ngừa thai, khuyến khích sự phá thai, sự tuyệt tự chủng
(stélesation), sự chậm chạp lập gia đình (Con trai 30 tuổi, con gái 25 tuổi).
Nhưng dân chúng ít người theo, kết quả không được bao nhiêu. Từ 1968,
lại phát động phong trào: mỗi gia đình có hai con là vừa đủ. Chính phủ
dùng những biện pháp mạnh: ở vài thị trấn, những gia đình có 3 con thì vợ
chồng có thể bắt buộc phải sống xa nhau, làm mỗi người một nơi, cách
nhau cả mấy trăm cây số, không được sống với con, không có nhà ở, chồng
phải sống tập thể với đàn ông, vợ với đàn bà. Lần này có kết quả nhưng
chậm. Và cuối thế kỷ, Trung Hoa có thể có tới 1.5 tỷ dân (1)
(1) Từ 1983, mới có tin chính phủ TH lệnh mỗi cặp vợ chồng chỉ được có
một con thôi, nhiều gia đình nếu con đầu là gái thì nhận nước cho chết để
chờ sinh con trai. Nếu thi hành chính sách đó thật gắt thì tới năm 2000 dân
số sẽ đứng lại ở khoảng 1 tỷ. Nhưng tôi chắc những người mẹ sinh từ 3 đứa
con gái trở lên sẽ thác loạn tinh thần, có thể tự tử. Rồi từ năm 2000, dân số
sẽ xuống mạnh; lúc đó dân tộc TH sẽ suy nhược (và phải đối phó với nhiều
vấn đề rắc rối, gái thiếu, trai thừa, người già nhiều quá, thành một gánh
nặng cho người trẻ...). Hiện nay sinh suất của dân tộc Pháp là 1.3 (nghĩa
là mỗi gia đình chỉ có 1.3 đứa con thôi) mà họ đã lo cái nạn suy nhược và
thiếu người làm lao động bằng tay chân, phải dùng nhiều lao công
Algiérie. Trong khi đó thì dân số Nga vẫn tăng đều đều...
Dân thiểu số ở Trung Hoa được khoảng 35 triệu người, 6% dân toàn quốc;
một số miền nam như người Miêu ở Hồ Nam, Thái ở Vân Nam, một số ở
miền núi hoặc một nửa sa mạc ở Tây Bắc, như người Mông Cổ, Mãn Châu,
Hồi Hột, Tây Tạng... Trung Hoa khác hẳn với Nga, không cho những dân
thiểu số có quyền tự quyết, phải bỏ tinh thần dân tộc hẹp hòi đi mà thống
nhất với người Hoa, như vậy cùng hơp lý vì từ thời dân chủ họ đã sống
chung với người Hoa, đã Hán hoá khá nhiều rồi. Nhưng theo hiến pháp
năm 1954, họ được tự trị, có được 200 ghế ở quốc hội, được khuyến khích
giữ ngôn ngữ và vài hình thức tổ chức xã hội của họ.
Hoa Kiều ở hải ngoại được khoảng 12 triệu, nhiều nhất ở Đông Nam Á (3.5
triệu ở Thái Lan, 2.5 triệu ở Mã Lai và Singapore, 1.6 triệu ở Indonexia,