Năm 1987, tôi quyết định từ bỏ những cuộc đua xe đạp để hoàn thành
chương trình nghiên cứu sinh, với mong muốn đem những ý tưởng của
mình đóng góp cho đời. Tôi chuyển lĩnh vực nghiên cứu từ tâm lý học sang
lịch sử, và năm 1991 tôi lấy được tấm bằng tiến sỹ lịch sử khoa học tại Đại
học Claremont. Tôi bắt đầu giảng dạy tại Đại học Ocidental, một trường
chuyên về nghệ thuật tự do, niên khóa bốn năm, tại Los Angeles. Từ đó, tôi
quan tâm đến những vấn đề khoa học lớn lao hơn, đặc biệt là nguy cơ của
sự phản khoa học và bất duy lý trong xã hội ngày nay. Năm 1992, cùng với
Kim – vợ tôi – và họa sỹ Pat Linse, tôi thành lập Hội Hoài nghi, xuất bản
tạp chí Hoài nghi, và cùng nhau tham gia giảng dạy nhiều chuyên đề tại
Học viện Công nghệ California.
Phương châm của Hội Hoài nghi là kim chỉ nam thứ hai cho cuốn sách này,
bắt nguồn từ bài luận của Baruch Spinoza, triết gia người Hà Lan, viết năm
1667 trước khi qua đời, Tractatus Politicus, trong đó ông giải thích phương
pháp nghiên cứu những môn khoa học mang nhiều yếu tố cảm xúc như
chính trị và kinh tế.
Tôi nghiên cứu đối tượng của những môn khoa học này với tinh thần tự do
giống như trong toán học, tôi cần mẫn làm việc không phải để chê bai, than
vãn hay lên án những hành vi của con người mà để thấu hiểu chúng; và vì
thế tôi nghiên cứu những cảm xúc hỷ, nộ, ái, ố, ghen ghét, tham vọng, tiếc
nuốc không phải để chứng tỏ sự đồi bại của bản chất con người mà xem
chúng như những thuộc tính cố hữu của con người, giống như nóng, lạnh,
sấm, chớp là bản chất của tự nhiên vậy.
Diễn đạt súc tích hơn, điều cốt lõi tác giả muốn nói là: “Tôi miệt mài
nghiên cứu không phải để nhạo báng, kêu ca hay khinh bỉ những hành vi
của con người, mà để hiểu được chúng.” Tôi nâng câu nói này lên thành
Cách ngôn của Spinoza, coi đó là chuẩn mực cần hướng đến khi nghiên cứu
các vấn đề nặng về cảm tính trong khoa học, tôn giáo và đạo đức. Điều này
thể hiện rất rõ trong bộ ba tác phẩm của tôi: Vì sao con người tin những