thành Khâm Châu. Lặng lẽ và thần tốc tới mức khi bắt quan giữ thành
Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái thì tướng giữ thành vẫn đang uống rượu. Ba
ngày sau, đến lượt Liêm Châu bị hạ. Quan giữ thành là Lỗ Khánh Tôn cùng
thuộc hạ bị giết chết. Quân nhà Lý bắt hơn 8000 tù binh, ép làm khuân vác,
thu gom của cải lên thuyền chở thẳng về Đại Việt.
Trong ba châu, như vậy chỉ còn châu Ung. Lý Thường Kiệt đưa thư sang
cho Tông Đản. Hai bên cùng kéo quân từ hai hướng tiến về châu Ung.
Trước giờ, hậu thế hầu như chỉ nhớ Lý Thường Kiệt qua bài thơ Nam quốc
sơn hà. Ý nghĩa bài thơ này ngoài một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc
còn là cái nâng cao sĩ khí để Đại Việt trụ vững trước cuộc tiến công của
Quách Quỳ ở sông Như Nguyệt. Nhưng Lý Thường Kiệt còn một bài văn
nữa, đó là bài hịch khi tấn công châu Ung:
“Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở
nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh
nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép “thanh
miêu”, “trợ dịch”, khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu
nuôi mình béo mập...
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc,
muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân
biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày
Nghiêu, hưởng tháng Thuận thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn
truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang
lòng sợ hãi!”
Dân Tống nghe xong, hoàn toàn bị thu phục, đưa rượu thịt ra khoản đãi
quân nhà Lý. Cái “văn” đi kèm cái “vẽ” của Lý Thường Kiệt họa chăng sau
này chỉ Trần Hưng Đạo có thể sánh cùng.
Nếu Việt Nam ta có Lý Thường Kiệt thì nhà Tống có Vương An Thạch.
Nhà cải cách của Trung Quốc quyết không chịu kém, soạn lại một chiếu