6
LỜI GIỚI THIỆU
Đêm xuống nhanh. Khắp rừng văng vẳng tiếng dế
cùng với tiếng rên rỉ sởn ốc của loài ve nhiệt đới. Dăm
ba ngôi sao lờ mờ rọi xuyên qua ngọn cây. Giữa rừng,
một căn nhà chòi được thắp sáng với hai cây đèn dầu,
và ở nơi đó khoảng vài chục người đang ngồi quanh
một nhà sư có vóc dáng nhỏ nhắn, chắc nịch, ngồi xếp
bằng trên một chiếc ghế mây.
Đó là một đám đông đủ hạng người: gần bên
Ajahn Chah (hay Luang Por, Đức Cha, lối xưng hô trìu
mến của các đệ tử đối với Ngài) là một nhóm Tz Khưu
2
và Sa Di
3
mà đa số là người Thái hay người Lào, với vài
người da trắng bao gồm một người Canada, hai người
Mỹ, một người Úc, và một người Anh. Ngồi ngay trước
mặt Ajahn Chah là một cặp vợ chồng độ trung tuần, ăn
mặc tươm tất và trang trọng, người chồng là nghị sĩ của
một tỉnh lị xa xôi. Nhân cơ hội đang công tác trong
vùng này, họ đến để viếng thăm Ajahn và cúng dường
thiền viện một ít tài vật.
Đằng sau họ và ở hai bên là một số dân cư địa
phương. Quần áo của họ sờn hẳn và nước da sẫm den,
nhăn nheo, giống như mặt đất nghèo nàn nơi đó.
Trong số họ, có vài người đã từng là bạn thuở ấu thời
của Luang Por, cùng bắt cóc và leo cây; có những người
từng được Ngài giúp đỡ, và đã từng giúp đỡ Ngài trước
khi Ngài là một Tz Khưu. Gần phía cuối là một nữ giáo
2
Tz Khưu: Tiếng Pāli là Bhikkhu, người xuất gia, thọ giữ 227 điều
luật.
3
Sa Di: Tiếng Pāli là Sāmaṇera, người xuất gia, thọ giữ 105 điều luật.