Giả sử như có ai đó đóng vai trò của Chúa Trời hay Darwin và quyết định xem
phần nào trên cơ thể người phụ nữ nên tập trung mỡ, và được nhìn nhận như một
dấu hiệu có thể nhận biết. Các chi trên cơ thể có lẽ sẽ được loại trừ bởi nếu tích tụ
một lượng mỡ lớn ở những phần này sẽ gây cản trở cho việc vận động hay những
cử động của tay và chân, vẫn còn rất nhiều phần trên cơ thể nơi mỡ có thể tập
trung một cách khá an toàn mà không ảnh hưởng tới việc cử động, và trên thực tế
như tôi mới đề cập tới ở trên, phụ nữ ở rất nhiều các chủng tộc trên thế giới đã
tiến hóa nên ba vùng lãnh địa trên cơ thể được sử dụng như các dấu hiệu. Dù sao
chăng nữa, chúng ta có lẽ buộc phải đặt ra câu hỏi khi nào thì lựa chọn có tính
tiến hóa về khu vực trên cơ thể thực hiện chức năng như một dấu hiệu là hoàn
toàn ngược lại, và tại sao không có những cộng đồng người mà ở đó người phụ
nữ sở hữu những phần khác trên cơ thể thực hiện chức năng làm dấu hiệu, chẳng
hạn như phần bụng hay phần ngang lưng. Lớp mỡ chắc hẳn không gây thêm khó
khăn cho việc vận động giống như lượng mỡ phức thực sự tích lũy ở phần ngực
và mông của người phụ nữ. Điều này là rất đáng quan tâm, tuy nhiên, những
người phụ nữ ở tất cả các chủng tộc khác nhau đều tiến hóa nên đặc điểm phát
triển mô mỡ ở phần vú. Hai bầu vú chính là bộ phận có chức năng tiết sữa, và có
lẽ cánh đàn ông cố gắng đánh giá chức năng này dựa trên những dấu hiệu về
lượng mỡ tích tụ. Do đó, một vài nhà khoa học đã gợi ý rằng những bầu vú căng
tròn tích lũy lượng mỡ lớn không những là dấu hiệu trung thực duy nhất đối với
tình trạng dinh dưỡng đầy đủ tổng thể, ngoài ra nó còn là một dấu hiệu đặc trưng,
dễ gây nhầm lẫn về khả năng cung cấp lượng sữa dồi dào (dễ nhầm lẫn bởi thực
chất sữa phần nhiều là do các mô tuyến vú tiết ra chứ không phải nhờ vào lớp mô
mỡ ở bầu ngực). Tương tự thế, người ta cũng thấy rằng sự tích lũy chất béo ở
phần hông ở tất cả các phụ nữ trên khắp thế giới vừa thể hiện dấu hiệu trung thực
về tình trạng sức khỏe tốt cũng vừa là dấu hiệu đặc trưng, dễ nhầm lẫn khiến
nhiều người cho rằng người phụ nữ đó nhiều khả năng sẽ “dễ đẻ” (dễ nhầm lẫn ở
đây là bởi trong quá trình sinh con ở người phụ nữ, việc có được ống dẫn lớn có
lẽ chỉ giảm bớt những cơn đau đẻ chứ thực chất việc có khung xương chậu lớn
không liên quan tới đặc điểm kể trên).
Về điểm này, tôi phải đề cập tới một số những ý kiến phản đối những giả thiết
của bản thân tôi khi cho rằng bộ phận sinh dục, thứ đồ trang trí cho cơ thể của
người phụ nữ có lẽ cũng có ý nghĩa tiến hóa nào đó. Cho dù được hiểu theo ý