Thấy mấy miếng giấy con rơi xuống đất, thầy khom xuống nhặt lấy (Liễu
nháy nó với Minh:"cho ông mò tới Tết") đưa ra ánh đèn trước thềm xem cả
bề mặt lẫn bề trái. Rồi yên trí rằng đám học trò không có viết điều gì phạm
luập "quốc cấm", thầy mới trả sách cho Minh, nhưng vẫn còn gờm Liễu:
- Cháu nên giữ kỷ luật nghe! Trai gái không được thư từ qua lai. lăng
nhăng!
- Dạ cháu không dám ạ!
- Mánh khoé của tụi bay tao nằm lòng hết. Biết tại sao không?
- Dạ không ạ!
- Tại vì tao cũng đã có một thời làm quỷ phá nhà chay như tụi bay bây giờ.
- Mấy con đầm mới là quỷ chớ tụi cháu là người phàm thầy ạ!
Thầy "Xụyt " không còn nghi ngờ nên quay lưng đi. Liễu đưa thư chớp
nhoáng cho Minh. Minh chộp lấy bức thư kẹp vào vở rồi ung dung đi qua
mặt thầy " Xuỵt ". Tuy qua mắt được thầy nhưng Minh vẫn còn nghe ơn ớn
xương sống.
Thầy "Xuỵt" đứng ở cửa ngó vô lớp học với chiếc quạt giấy nâu giá hai xu
mua ở chợ, cái vật bất ly th6n luôn luôn dính ở tay thầy. Thầy dùng để quạt
cho khô mồ hôi và che cái bụng màu mỡ của thầy. Lúc nào thầy cũng hổn
hển làm như trời thiếu dưỡng khí cho thầy thở. Tuy vậy thầy vẫn siêng
năng rình mò để bắt phạt học trò. Nhưng đứa nào bị xí nha lê mà kiên nhẫn
năn nỉ thầy chừng nửa tiếng đồng hồ và hứa sẽ không tái phạm thì thầy sẽ
tha cho.
Do đó học trò kháo với nhau rằng thầy " xuỵt " lấy "bụng " ở đời.
Minh vào tận trong góc phòng len lén mở phong bì lấy thư ra đọc:
Anh Minh thân mến,
Em được thư của anh một cách bất ngời do chị Liễu trao lại. Chị bảo rằng
thư do chị Mi bắt gặp trong quyển Larousse rồi chị bảo Liễu đưa cho em vì
bên ngoài phong bì có tên người gởi là anh và người nhận là em. Nếu
không thì chắc bức thư sẽ đi lang thang như một con "thuyền không bến"
hoặc một món hàng rong chẳng biết ai là kẻ gởi và ai là người nhận.
Anh Minh,
Em rất xúc động đọc những dòng chữ của anh. Em có thể nói với anh rằng