chế độ ngoại hôn, nghĩa là cấm mọi quan hệ tình dục với những người đàn
bà trong cùng một gia đình, những người mà đứa bé trai từng yêu thương
trìu mến ngay từ thuở ấu thơ. Bằng cách đó, người ta đã tách khía cạnh
thương mến ra khỏi những ham muốn nhục dục và sự chia tách đó còn tồn
tại vững chắc cho đến ngày nay. Kết quả của tục ngoại hôn là nhu cầu nhục
dục của người đàn ông phải được thỏa mãn bằng những người đàn bà xa lạ,
chưa từng được họ yêu thương.
Trong phần lớn các đám đông nhân tạo, như trong quân đội và nhà
thờ, không có chỗ cho đàn bà như là đối tượng dục tình. Quan hệ yêu
đương nam nữ nằm ngoài các tổ chức đó. Ngay cả trong các tổ chức gồm
cả đàn ông và đàn bà thì sự khác biệt về giới tính cũng không có vai trò gì.
Không có vấn đề tìm hiểu xem cái libido duy trì sự đoàn kết đám đông
mang bản chất đồng tính ái hay lưỡng tính ái vì nó không phân chia theo
giới cũng không phải ám chỉ cơ cấu giới tính của libido.
Những khao khát dục tính trực tiếp vẫn giữ được ở mức độ nào đó
tính cách cá nhân ở cả những người đã bị tan trong đám đông. Nơi nào mà
các khao khát này phát triển mạnh lên thì chúng có thể làm đám đông tan
rã. Giáo hội công giáo có những lí do xác đáng khi khuyên răn đạo hữu
sống độc thân và buộc thày tu chay tịnh, nhưng ái tình thường là động lực
đưa tu sĩ đến chỗ phá giới. Tương tự như vậy, tình yêu với người đàn bà có
thể phá vỡ những ràng buộc về chủng tộc, biên giới quốc gia, phân chia giai
cấp và nhờ vậy đã có đóng góp quan trọng vào nền văn minh. Không nghi
ngờ gì rằng đồng tính ái dễ dàng dung hợp với các ràng buộc với đám đông
ngay cả khi nó thể hiện như những khao khát không bị ngăn chặn. Đó là
một sự kiện dị thường, nhưng không thể giải thích được ở đây vì nó sẽ dẫn
chúng ta đi quá xa.
Nghiên cứu tâm lí các trường hợp suy nhược thần kinh đã cho
chúng tôi nhận thức rằng triệu chứng bệnh bắt nguồn từ các khao khát bị
dồn nén nhưng vẫn còn sức hoạt động. Công thức này có thể được bổ túc
thêm: các triệu chứng là sản phẩm của những khao khát bị cản trở theo