Các nghiên cứu về con nuôi đã minh chứng về tính di truyền của tội
phạm. Nghiên cứu trên phạm vi lớn ở Đan Mạch báo cáo năm 1984 của
Sarnoff Mednick từ Đại học Nam California là nghiên cứu được trích dẫn
nhiều nhất.
Tiến sĩ Mednick phát hiện ra con nuôi có cha mẹ ruột là tội
phạm dễ trở thành tội phạm hơn so với con nuôi có cha mẹ ruột không phải
tội phạm. Các nghiên cứu về việc nhận con nuôi sau đó đã xác nhận phát
hiện này của ông.
Sinh học không nhất thiết phải là vận mệnh. Một người có khuynh
hướng sinh học nghiện rượu không phải lúc nào cũng trở thành người
nghiện rượu. Có những người bị tổn thương não được cho là gây ra hành vi
phạm tội, nhưng không có nghĩa là tất cả họ sẽ trở thành tội phạm. Như
Tiến sĩ Raine chỉ ra, “Tính khí và khía cạnh sinh học giống nhau có thể dẫn
đến các kết quả cuộc sống khác nhau”. Nghiên cứu của các nhà tội phạm
học thần kinh xứng đáng nhận được sự quan tâm nghiêm túc. Tiến sĩ Satel
cũng cảnh báo rằng chúng ta nên “sử dụng kiến thức do khoa học thần kinh
cung cấp mà không đòi hỏi nó giải thích cho tất cả bản chất con người”.
Như bạn có thể thấy, các học thuyết về những nguyên nhân tiềm ẩn
của tội phạm là vô tận và trải dài trên nhiều lĩnh vực. Tiếp theo đó là một
chuyến tham quan vào bên trong tâm trí tội phạm.
Nếu bạn cố gắng hiểu được tội phạm bằng một tâm hồn cởi mở, có lẽ
bạn cũng sẽ không còn sa lầy vào vô số những học thuyết lý giải tại sao
mọi người trở thành tội phạm. Thay vào đó, hãy tập trung vào chính bản
thân tội phạm, cách thức suy nghĩ và cư xử trong cuộc sống hàng ngày của
anh ta. Điều này có thể giúp bạn tránh mâu thuẫn với những người như vậy
trong các mối quan hệ thân mật hoặc kinh doanh. Nắm rõ cách thức hoạt
động của tư duy tội phạm sẽ giúp hoạch định chính sách công và giúp tội
phạm thay đổi để trở thành những con người có trách nhiệm.