năm trước. Phương Mộc ngồi trước bàn đọc hồ sơ hết trọn nửa ngày
nhưng không phát hiện ra vụ án nào tương tự vụ án này. Thế thì khả
năng kẻ phạm tội có tâm lý dị thường là không lớn. Cứ cho là như thế thì
giả thiết kẻ phạm tội nói câu ấy là cố tình, thế thì câu nói đó có thể là
một ám hiệu, kẻ phạm tội hy vọng Thẩm Tương khi nghe đến chữ “mùi
vị” sẽ phản ứng cực kỳ mạnh mẽ.
Một đoạn khác La Gia Hải nói là mỗi lần Thẩm Tương đi tắm hoặc
đi mua sắm đều cảm thấy có người đi theo. Nếu như nói Thẩm Tương
thời gian đầu sau khi gặp kẻ xâm hại mà sinh ra bệnh hoang tưởng thì
Phương Mộc không hề cảm thấy kỳ lạ. Cảm thấy có người đi theo mình
có lẽ là ảo giác hoặc hoang tưởng của Thẩm Tương. Nhưng nếu như kết
hợp với giả thiết kẻ phạm tội cố ý khiến cho Thẩm Tương hình thành
phản ứng tinh thần đối với “mùi vị” thì cảm giác bị theo dõi của Thẩm
Tương có lẽ không phải là ảo giác hoặc hoang tưởng của cô ta. Hay nói
một cách khác, chính xác có người đã theo dõi Thẩm Tương mà mục
đích theo dõi là để quan sát và quay phim những phản ứng quá khích của
cô.
Phương Mộc bỗng cảm thấy rùng mình, lẽ nào lại là một thí
nghiệm tâm lý? Không, không thể, như thế thì quá tàn nhẫn. Nếu như
dùng hành động cưỡng hiếp làm thủ đoạn thí nghiệm thì nó không chỉ
phản lại vấn đề luân lý trong nghiên cứu tâm lý học mà là phạm tội!
Nhưng nếu như giả thiết này thành hiện thực thì những người khác
trong tổ chức hỗ trợ giết người có liên quan đến thí nghiệm tâm lý này
không? Phương Mộc chăm chú nhìn bức ảnh Thẩm Tương. Đây là bức
ảnh đăng ký hộ tịch. Khi ấy Thẩm Tương khoảng độ 17, 18 tuổi. Đôi mắt
sớm phủ một lớp đượm buồn, trong nụ cười hơi e thẹn có vẻ căng thẳng
và gò bó. Nhưng tất cả đều không che đậy được vẻ thanh tú và trẻ trung.
Nghĩ đến việc cô ta kinh sợ mùi người mình và gần như che giấu sự tự
hành xác, Phương Mộc bất giác cảm thấy buồn bã nhưng đồng thời anh
cũng ý thức một cách mãnh liệt rằng thực ra phản ứng quá khích của
Thẩm Tương chính là trạng thái của Hội chứng chấn thương tâm lý.