nhau, con nhỏ bị chết, con lớn bị thương. Biện Trang Tử đi theo con lớn bị
thương mà bắt, cuối cùng bắt được cả hai con hổ.
Giả Phục: tự Quân Văn, người quận Nam Dương. Thời vua Quang
Vũ được bái làm Chấp kim ngô, đi đánh Yển Vương là Doãn Tôn và các
tướng ở miền nam chưa thần phục.
Giặc Yển: tức Doãn Tôn, thời vua Cánh Thủy được phong làm Yển
Vương, trông coi huyện Yển thuộc quận Dĩnh Xuyên.
Nam Trọng: là tướng súy thời Văn Vương của nhà Chu, đem quân
lên miền bắc đắp thành đánh dẹp người Nhung.
Cát Phủ: là quan giỏi thời Tuyên Vương của nhà Chu, từng đem
quân đánh người rợ Hiểm Duẫn ở phía bắc.
Tuân Hoàn Tử: là tướng giỏi của nước Tấn thời Xuân thu.
Phùng Dị: là tướng giỏi của vua Quang Vũ nhà Hán.
Tư Mã Đại Tướng quân: tức Tư Mã Chiêu, bấy giờ làm Đại Tướng
quân của nước Ngụy.
Tuân Việt: tự Thần Trọng, người quận Thái Nguyên thời Tây Hán,
từng chia tiền của cấp phát cho họ hàng.
Chinh nam: tức Chinh nam Tướng quân Tào Nhân, tự Tử Hiếu, em
họ của Tào Tháo, bấy giờ đóng quân ở Tương Dương.
Cột đá: ý nói người có chức cao của nhà nước, như cột chống giữ
cho nhà nước được vững vàng.
Tiên đế: tức Ngụy Vũ Đế Tào Tháo.
Đỗ Tử Tự: tức Đỗ Tập tự Tử Tự, người huyện Định Lăng quận Dĩnh
Xuyên, xem ở Tam quốc chí - Ngụy thư - Đỗ Tập truyện.
Thiền vu: tức vua của người Hung Nô là Hô Trù Tuyền, bấy giờ đóng
đô ở Bình Dương.