Cao Tổ xét công phong làm Trường Sa Vương, đống đô ở thành Lâm
Tương.
Điền Hoành: là dòng dõi quý tộc nước Tề cuối thời Chiến quốc, cuối
thời Tần, cùng anh em Điền Đam, Điền Vinh nổi dậy chống nhà Tần. Sau
khi Lưu Bang thống nhất chư hầu, Hoành không chịu theo nhà Hán, tự sát,
hơn năm trăm tráng sĩ thuộc hạ cũng tự sát theo.
Vương Lăng là con của Vương Doãn, Tào Tháo trước đây ở triều
đình cũng có quen biết Vương Doãn, nên mới nói là con của Vương Doãn
thì cũng như con của anh (thầy) mình.
Tức Tào Phương, được nối ngôi đế của Tào Duệ (Tuấn).
Chứng cớ không thực sự rõ ràng, song theo luật pháp nước Nguỵ thì
chư hầu không được đi lại thăm hỏi nhau, chỉ được ở đất phong của mình,
nói có tội thì cũng đúng.
Hà Yến, tự Thúc Bình, cháu của Hà Tiến, đại tướng quân thời Hán
Thiếu đế; Đặng Dương, tự Huyền Mậu, dòng dõi Đặng Vũ thời Hán Quang
đế Lưu Tú; Đinh Bật tự Nghiện Tĩnh; Tất Phạm tự Chiêu Tiên; Hoàn Phạm
tự Nguyên Tắc, mấy người này là bộ hạ của Tào Sảng.
Tập thị tức là sách của họ Tập, tức Tập Tạc Xỉ. Ông này còn là tác
giả cuốn sách nổi tiếng là Tương Dương kỳ cựu ký. Bùi Tùng Chi chú giải
Tam quốc chí, ngờ là những điều này không thấy ghi trong các sử sách
trước đó, những điều ghi chép không đúng với sự tích, đó là do Tập Tạc Xỉ
bịa đặt ra.
Tuấn tức là sâu xa, Ngu tức là ngu dốt. Đế xỉ vả Lệnh Hồ Tuấn làm
việc ngu dốt. Theo Nguỵ thư dẫn thì cái tên Lệnh Hồ Ngu có xuất xứ như
vậy.
Sở Vương Tào Bưu được ở đất phong tại huyện Bạch Mã, phía tây
nam huyện Bạch Mã là kinh đô Lạc Dương, nói ngựa bạch (Bạch mã) rong
ruổi xuống tây nam tức là ám chỉ rằng Tào Bưu vào làm chủ Lạc Dương.
Sứ quân ở đây là trỏ vào Lệnh Hồ Ngu, Ngu làm Thứ sử Duyện châu
nên được gọi là Sứ quân.