Trương Tuân là con Trương Bào, cháu Trương Phi.
Kình ngê tức là cá voi cá kình.
Nguyên văn lời thoán trong Kinh dịch về quẻ Kiển là ‘lợi Tây Nam,
bất lợi Đông Bắc, lợi kiến đại nhân, trinh cát’. Tức là Đi về Tây Nam thì
lợi, đi về Đông Bắc sẽ bất lợi. Gặp đại nhân giúp mới được lợi, bền giữa
chính đạo thì mới tốt. Ở đây cụ Bùi Tùng lý giải rõ quẻ Kiển khác với lời
mà cụ Trần Thọ dẫn qua lời nhân vật Viên Thiệu nói về quẻ Kiển với Đặng
Ngải.
Miền Hà Hữu: tức vùng đất phía tây sông Hoàng Hà. Sông Hoàng
Hà có chỗ chảy từ phía nam lên phía bắc, phía tây sông gọi là vùng Hà
Tây, hoặc vùng Hà Hữu.
Đông cung: thời xưa Thái tử ở cung phía đông cho nên Thái tử cũng
gọi là ‘Đông cung’. Ý nói lúc Ngụy Minh Đế còn làm Thái tử rất gần gũi
với Kiệm.
Tướng quốc Ý: tức Thái phó Tư Mã Ý.
Hai tên giặc: chỉ hai nước Ngô và Thục
Thái úy Phu: tức Thái úy Tư Mã Phu.
Bảo phó: tức tên gọi chung cho chức quan dạy dỗ con em quý tộc
trong cung.
Giết Cổn dùng Vũ: thời vua Thuấn, nước sông tràn ngập, vua Thuấn
sai Cổn đi trị thủy, mười năm không xong, giết Cổn, dùng con Cổn là Vũ
thay đi trị thủy, bèn xong, tức vua Vũ của nhà Hạ.
Đại Tướng quân Chiêu Bá và Thái phó: tức Đại Tướng quân Tào
Sảng, tự Chiêu Bá và Thái phó Tư Mã Ý. Bấy giờ được Ngụy Minh Đế trao
gửi con nhỏ là Tào Phương.