quan cũng có trăm đường vậy. Khương Duy sáng danh ở nước Nguỵ, mà
chạy đến làm quan ở xứ Thục, lìa bỏ quân vương chạy theo danh lợi, chẳng
thể bảo là trung; bỏ rơi người thân cẩu thả chạy thoát thân, không thể nói
là hiếu; lại thêm tàn hại nước cũ, chẳng thể bảo là nghĩa; nước mất không
dám chết, sao dám bảo rằng tiết; vả lại đức chính chưa đủ mà làm dân mỏi
mệt để buông tuồng theo ý mình, nắm giữ việc chống kẻ địch mà sau bị địch
khống chế, ôi người có trí dũng chẳng ai lại nói rằng: Khắp cả sáu cõi,
chẳng có một ai. Xem ở nước Nguỵ không có kẻ thần tử đi trốn, nước mất
tướng loạn, mà nói rằng người ấy là bậc nghi biểu, lời ấy thật đáng ngờ
vậy. Buông lời khen rằng Duy là hay để nói rằng đó là vi diệu cao khiết, há
lấy làm lạ cho kẻ trộm cắp rõ ràng như thế, mà Trình-Trịnh
bậc khéo léo sao?
Thần là Tùng Chi cho rằng Khước Chính luận như thế, ấy mới thật đáng
khen, chẳng thể bảo rằng Duy trước sau làm việc đều được chuẩn mực cả.
Nói rằng “nghi biểu một thời”, ấy là chỉ ở việc hiếu học và thanh bạch thôi
vậy. Nguyên uỷ truyện này
và sách Nguỵ lược đều nói rằng Duy vốn
không có ý phản bội, chỉ vì bị bức bách mới phải theo về Thục. Thịnh lấy
điều ấy để chê trách, nghĩ rằng chỉ nên trách Duy đã trái lời mẹ già. Thế
đã là quá lắm rồi, sao lại còn chê trách cả Khước Chính vậy.
Khi xưa Duy chạy đến xứ Thục, Lương Tự giữ chức Đại hồng lư, Doãn
Thưởng làm Chấp kim ngô, Lương Kiền làm Đại trường thu, đều chết trước
khi nước Thục mất.
Bình rằng: Khương Duy kiêm tài văn vũ, chí hướng lập công danh, song
chỉ có một mình, dẫu sáng suốt quyết đoán cũng chẳng thể kiêm toàn, kết
cục đã hết sức mình rồi phải chết. Lão Tử nói rằng: “Cai trị một nước lớn
giống như nấu con cá nhỏ”, huống chi ở nơi mỏn mọn, lại luôn muốn quấy
rối được sao?
Kiền Bảo viết: Khương Duy làm tướng nước Thục, nước mất chủ nhục
mà thân chẳng chết, lại chết cùng Chung Hội trong lúc rối ren, thương
thay! Chẳng chết đã là khó, biết chết lại càng khó hơn vậy. Kẻ sỹ cứng cỏi
như thế xưa nay hiếm, biết nguy nan vẫn chịu mệnh, biết kiềm chế mình mà