Thúc Chí tên là Đáo, người Nhữ Nam, đi theo Tiên Chủ từ ở Dự Châu.
Danh vị thường dưới Triệu Vân song cũng được khen là người trung dũng.
Đầu những năm Kiến Hưng quan chức đến Vĩnh An Đô Đốc, Chinh Tây
TướngQuân, được phong Đình Hầu.
Trấn Nam thô Hào ngay thẳng, Giám Quân trung hậu hơn đời, cùng nhau
gánh vác việc quân, đảm đương từ ngoài biên giới - Tán Phụ Nguyên Bật,
Lưu Nam Hoà.
Phụ Nguyên Bật tên là Khuông, người Tương Dương, theo Tiên Chủ vào
Thục. Khi Ích Châu đã bình định, làm Ba Quận Thái Thú. Trong những
năm Kiến Hưng đổi thành Trấn Nam, Hữu Tướng Quân, phong Trung
Hương Hầu.
Lưu Nam Hoà tên là Ung, người ở Nghĩa Dương, thao Tiên Chủ vào
Thục. Khi Ích Châu đã bình định, làm Giang Dương Thái Thú. Trong
những năm Kiến Hưng dần dần được thăng làm Giám Quân, Hậu Tướng
Quân, ban tước Quan Nội Hầu rồi chết. Con là Thức nối nghiệp. Con thứ là
Vũ, giỏi văn học, danh tiếng ngang với Phàn Kiến, quan cũng đến Thượng
Thư.
Tư Nông bản chất tài ba, tỏ bày điển chương đúng phép, mài giũa văn từ
diễm lệ rạng rỡ vinh diệu lời lời - Tán Tần Tử Sắc.
Chánh Phương vâng theo di mệnh, dự nghe phép tắc mai sau, chẳng
tuyên dương không cùng nói, riêng dựng tâm tư, đương thời người ruồng
bỏ, sự nghiệp gánh vác để dở dang - Tán Lý Chánh Phương.
Văn Trường cứng cỏi vụng về, nhận lệnh giữa lúc nguy nan, phán đoán
chỗ quan yếu, chế ngự mặt bên ngoài, canh giữ biên giới bảo vệ quốc
thổ.Khổ vì không hoà hợp chẳng thuận thảo, quên lễ tiết nói lời xằng. Ghét
cái kết cục mà thương cho thửơ ban đầu - Tán Nguỵ Văn Tràng.
Uy Công nóng nảy hẹp hòi, việc làm khác với thường nhân. Thong dong
tất kế tục được thế thứ, bức bách ắt tốn hại đến bản thân. Bỏ thuận tòng nên
thu tai hoạ, đổi thay lớn chính vì như thế - Tán Dương Uy Công.
Quý Thường lương thiện thành thật, Văn Kinh siêng năng hiền lành, Sĩ
Nguyên nói lời khuyên răn, Xử Nhiên hiểu biết sách lược, Khổng Hưu, Văn