được sự bất lực và sức mạnh của thời gian: có lẽ trong hai thế kỷ vừa qua,
nơi này chỉ trầm tích có một lớp đất cát mỏng phía bên trên đó thôi; còn
trong những năm địa chất không có con người dài đằng đẵng kia, lại sinh
thành nên cả ngọn núi chứa đựng khu mộ này. Anh đào rất vất vả, chỉ có
thể đào một lúc rồi nghỉ một lúc, màn đêm bất giác đã dần dần lùi đi lúc
nào không hay.
Về nửa sau đêm mưa đã tạnh, sau đó tầng mây cũng bắt đầu tản đi để lộ
ra một phần bầu trời sao. Đây là bầu trời sao sáng nhất mà La Tập từng
thấy từ sau khi đến thời đại này. Vào cái buổi hoàng hôn của hai trăm mười
năm trước, cũng chính ở nơi đây, anh và Diệp Văn Khiết đã cùng đối diện
với bầu trời sao này.
Giờ đây, anh chỉ thấy có sao trời và bia mộ, nhưng đây lại là hai thứ
thích hợp nhất để tượng trưng cho sự vĩnh hằng.
Rốt cuộc, La Tập cũng cạn kiệt sức lực, không thể đào thêm được nữa.
Anh nhìn cái hố mình đào được, rõ ràng làm huyệt thì hơi nông, song cũng
chỉ có thể làm đến mức ấy mà thôi. Thực ra, anh làm như vậy không ngoài
việc muốn nhắc nhở mọi người rằng mình hy vọng được mai táng ở nơi
đây, chứ kết cục cuối cùng của anh rất có thể là biến thành tro tàn trong lò
hỏa táng, sau đó tro cốt bị vứt ở một nơi không người hay biết. Có điều,
vậy cũng chẳng sao cả, rất có thể, chỉ ít nữa, tro cốt của anh cùng cả thế
giới này sẽ biến thành những nguyên tử phân tán khắp nơi trong một ngọn
lửa còn lớn hơn bội phần.
La Tập dựa vào bia mộ của Diệp Văn Khiết, không ngờ lại mau chóng
ngủ thiếp đi. Gó lẽ do cái lạnh, anh lại mơ thấy cánh đồng tuyết, trên cánh
đồng tuyết ấy, anh lại trông thấy Trang Nhan đang bế con gái, cô quấn khăn
choàng cổ màu đỏ trông như một ngọn lửa. Cô và con gái đều đang vẫy gọi
anh, nhưng không nghe tiếng nói, còn anh thì gắng hết sức hét gào về phía
họ, bảo họ đi thật xa, vì Giọt Nước sắp lao tới đây! Nhưng thanh đới của
anh không phát ra tiếng, tựa hồ cả thế giới này đã bị tắt đi âm thanh, mọi