pháp, tham gia một lớp học tập, ngoan ngoãn viết mấy bản kiểm điểm là cô
có thể trở về binh đoàn; còn nếu muốn to chuyện ra thì Tiểu Diệp à, trong
lòng cô cũng rõ rồi mà, hoàn toàn có thể phán tội phản cách mạng đấy. Đối
với những vụ án chính trị như của cô, hệ thống công an, kiểm sát, tòa án
bây giờ thà thiên tả chứ không thiên hữu, thiên tả thì là vấn đề phương
pháp, còn thiên hữu lại là vấn đề đường lối, phương hướng cuối cùng vẫn là
đê bên Ủy ban quân sự quyết định. Tất nhiên, những lời này chỉ có thể nói
riêng giữa chúng ta với nhau thôi.”
Người đi cùng chị ta nói: “Đại diện Trình thật lòng muốn tốt cho cô, bản
thân cô cũng thấy rồi đó, đã có ba nhân chứng ký tên rồi, cô có ký hay
không cũng không có uý nghĩa gì nhiều. Diệp Văn Khiết, cô đừng nhất thời
hồ đồ nữa.”
“Đúng đấy, Tiểu Diệp, nhìn cô gái có tri thức như cô bị hủy hoại như
vậy, tôi đau lòng lắm! Tôi thật sự muốn cứu cô, cố nhất thiết phải phối hợp
với tôi đấy. Nhìn tôi đây này, lẽ nào tôi lại hại cô chứ?”
Diệp Văn Khiết không nhìn Trình Lệ Hoa, cô chỉ thấy máu của cha
mình. “Đại diện Trình, tôi không biết những chuyện viết trên đó, tôi sẽ
không ký tên đâu.”
Trình Lệ Hoa im lặng, nhìn chằm chằm vào Diệp văn Khiết một lúc lâu,
bầu không khí giá lạnh tựa như đông cứng lại. Sau đó, chị ta chậm rãi cất tài
liệu vào cặp táp, đứng dậy, nét hiển từ trên gương mặt vẫn không biến mất,
mà chỉ đông cứng lại, như thể đang đeo một tấm mặt nạ bằng thạch cao. Chị
ta cứ đeo một bộ mặt hiền từ ấy đi tới góc tường, ở đó có một thùng nước
để rửa mặt rửa tay, chị ta nhấc thùng nước lên đổ một nửa số nước bên
trong lên người Diệp Văn Khiết, một nửa lên đống chăn nệm, động tác gọn
gàng vững vàng, sau đó ném thùng quay người đi ra cửa, buông lại một câu
chửi: “Đồ con hoang ngoan cố!”
Trại trưởng trại tạm giam là người đi sau cùng, anh ta lạnh lùng nhìn
Diệp Văn Khiết toàn thân ướt sũng, đóng của đánh “rầm” một tiếng rồi
khóa lại.