Lưỡi nó líu lại, không nói được hết câu. Tôi nhẹ nhàng:
- Đừng sợ, chúng tôi là bộ đội hi sinh hồi chiến tranh ở đây.
Chả ngờ câu nói làm nó sợ hơn. Thậm chí nó không còn phát ra tiếng
được nữa. Cứ “u u” ở đầu lưỡi. Tôi bảo:
- Đừng sợ. Anh bây giờ thành hồn ma rồi. Cú ngã vừa xong đã đổi
kiếp cho anh.
Nó rống rất thảm thiết. Ra, nó chưa biết mình đã chết. Nó cuồng lên
chạy tọt xuống vực. Dáng chừng để cầu cứu bọn kia, xem phải thật thế
không. Hoặc, để kiểm chứng thân thể mình. Được một lúc, nó lò dò quay
trở lại. Bộ điệu rất thiểu não. Nó so vai, gục đầu, miệng rên ư ử:
- Hết đời rồi, còn vợ, con tôi, hu hu...
Khóc chán chê mê mỏi, nó ngơ ngác nhìn tứ phía. Dấu tích bữa ăn còn
đây, vương vãi tàn diêm, bã thuốc, giấy báo. Đàn kiến núi to gộc bâu kín
chỗ thức ăn thừa. Còn nguyên cả mà đã hai thế giới khác. Nó dọ dẫm lần
vào hang. Nó vội quỳ thụp xuống làm dấu thánh giá:
- Giê su ma lạy chúa!
Thằng ngụy phì cười. Thằng nhỏ con ngước mặt. Nó nhận ra đức chúa
trên vách mặc đồ trận rằn ri. Thằng ngụy vẫn cười:
- Tao là lính chết trận dạo bảy tư. Dưới vực kia làm chó gì có xác Mỹ.
Chỉ có xác tao thôi, hiểu không?
Thằng nhỏ con chợt nổi xung. Có lẽ nó tiếc thân nó tiêu oan uổng. Chỉ
có xác thằng mập này, ngu ơi là ngu:
- Nè, tao ngán là ngán mấy cha cộng kia. Còn mày sức mấy. Nhìn đây
này. - Nó vén tay áo để lộ những hình xăm chật hai cánh tay. Đủ hết rồng