Trong những ngày rối loạn ấy, Tào Tháo liên tục theo dõi sự tiến
triển của sự việc, cố nhiên là lo lắng cho triều đình, và chủ yếu hơn thì
là vì phụ thân đã bằng lòng giúp Tào Tháo mưu tính một chức vụ
trong quân.
Đợi đến khi chọn lựa xong các tướng lĩnh xuất chinh, tất cả đã
lắng xuống, mà Tào Tháo thì vẫn chẳng được chạm đến được chức vị
nào trong quân cả. Trông thấy một loạt những người quen biết trong
bắc quân như Trâu Tĩnh, Thư Tuấn, Ngụy Kiệt đều đã chỉnh đốn binh
mã chuẩn bị xuất phát, Tào Tháo mới buồn bực đến hỏi cha, nhưng
Tào Tung chỉ cười không đáp.
Tuy Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn, Lư Thực đều là những người
hiểu rõ binh pháp, nắm giữ binh dũng lâu ngày, nhưng cục thế hoàn
toàn không chuyển sang hướng có lợi, nguyên nhân là do quân ít mà
giặc đông. Đại Hán từ sau khi vua Quang Vũ trung hưng đến nay, để
đề phòng các quan lại địa phương giữ quân tự vệ, triều đình đã giải tán
quân thủ vệ ở các quận quốc cho đến thành trì quan ải, chỉ giữ lại một
bộ phận quân thường trú ở bốn cánh Đông, Tây, Nam, Bắc. Năm
doanh bắc quân hộ vệ kinh sư, bảy thự nam quân bảo vệ hoàng cung,
tây quân trú phòng Tam Phụ, đông quân đóng giữ Hoàng Hà, phụ
trách việc giám sát các tộc ngoài. Từ khi người Khương, Tiên Ti trở
thành mối lo lắng, tây quân hầu như đã điều động hết đến Tây Bắc để
chiến đấu, đông quân cũng bị điều động rút đi không còn mấy, số quân
hiện còn đã dồn hết cho Lư Thực thống lĩnh. Như vậy, sau khi đã điều
quân đội ba cánh này đi, triều đình thực tế đã không còn quân để phái
đi nữa!
Ở địa phương vốn không có quân chính quy đáng kể, cho nên
những khu vực quân Khăn Vàng tấn công, chỉ có thể dựa vào quân
lính của các nhà địa chủ cường hào và quan viên mộ được để chống
cự. Trước tình hình như vậy, xu thế chiến bại đã hiển hiện không thể
cứu vãn. Thứ sử U châu là Quách Huân, thái thú Trác quận là Lưu Vệ,