nghĩa Bạch Ba, thủ lĩnh là Quách Thái chiến tử, thủ hạ là bọn Hàn
Tiêm, Lý Nhạc, Hồ Tài, tài lực không đủ, chỉ còn nước lui về giữ chặt
Bạch Ba cốc. Đến đây, loạn ở Tịnh Châu cũng coi như đại khái đã
được yên ổn.
Việc dẹp loạn nơi nơi thắng trận, chiến hỏa các chỗ lần lượt chấm
dứt, trong một thời gian đao thương được cất kỹ, ngựa thả ở Nam Sơn,
thực là điềm vua mới đăng cơ, thiên hạ thái bình. Chinh chiến không
còn phải đánh mãi không dứt nữa, tám doanh của Tây Viên hiệu úy
chuyên trách việc dẹp loạn đã không còn tác dụng, triều đình dần cắt
bớt số quân, số quân sĩ ấy chỉ giữ lại một phần ba.
Tào Tháo đảm nhiệm chức Điển quân hiệu úy, vốn trên đầu còn
có một vị thượng cấp là Kiển Thạc, bất kể là vì mục đích gì, chí ít
cũng phải thảo luận về chiến sự. Nhưng nay Kiển Thạc đã chết, chiến
trận cũng không phải đánh nữa, đồn thủ ở kinh sư thì đã có bắc quân,
đám tạp binh của Tào Tháo thực ra cũng không có ý nghĩa lắm, cùng
với việc tiến hành cắt giảm binh lính, số quân vũ trang của Tào Tháo
cũng ngày càng ít. Đặc biệt là sau khi quân kỵ ở Tây Viên do Lưu
Hoành tổ chức lúc sinh tiền bị giải tán, vườn ngự của hoàng gia không
sử dụng cho việc quân sự nữa, đến chỗ nha môn nghị sự của các hiệu
úy cũng không còn.
Bọn Tào Tháo thấy thế, cũng không còn lòng dạ tập luyện binh
mã, tất cả mọi việc đều đẩy sang cho các vị tư mã trong doanh, còn
mình thì đến mạc phủ nhàn tọa, không khác gì những thuộc hạ của đại
tướng quân.
Hà Tiến là một quốc cữu ngoại thích không tệ, đôn hậu, tốt bụng,
lại có nghĩa khí, nhưng ông ta không có tư chất là một đại tướng quân.
Không cần nói đến việc xử lý chính sự không có chủ kiến, ngay chữ
trên các bản tấu chương ông ta cũng không biết hết. May mà trong
mạc phủ toàn các bậc cao nhân, trưởng sử Vương Khiêm thống lĩnh
các việc trọng yếu, Khoái Việt lo chuyện nhân sự, thuộc hạ các ban ai
nấy đều làm theo chức trách của mình, phủ đại tướng quân nghiễm