172
Tạp chí
Kinh tế - Kỹ thuật
đương 99.7% được xem là nhỏ, mặc dù không có định nghĩa phổ quát về một doanh nghiệp nhỏ
nhưng mô tả chung của một doanh nghiệp nhỏ là sử dụng ít hơn 100 lao động. Các doanh nghiệp
nhỏ tại Mỹ phát triển mạnh trong hầu hết các ngành như dịch vụ (51.1%); xây dựng (13.4%); bán
lẻ (11.8%); tài chính, bảo hiểm và bất động sản (9.5%); bán sỉ (5.4%); chế tạo (4.4%); và các lĩnh
vực khác 4.4%, các công ty nhỏ tuyển dụng 50.2% lực lượng lao động trong khu vực tư nhân mặc
dù họ chỉ sở hữu 1/4 tổng tài sản doanh nghiệp (Scarborough, 2012). Các doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ
cũng trả 45% tiền lương cho nhân viên vì họ chủ yếu sử dụng nhiều lao động, theo ước tính của Cơ
quan Quản trị doanh nghiệp nhỏ (SBA) thì các công ty nhỏ tạo ra 79% số việc làm mới mỗi năm
(Green, 2009). Tầm quan trọng của DNNVV không chỉ diễn ra ở Mỹ. Tại Cộng hòa Séc, khu vực
DNNVV góp phần tạo ra 60% tương đương 1,856 triệu việc làm và 49.5% tổng sản lượng của cộng
đồng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tại đây năm 2011 đã đóng góp vào tổng giá trị xuất khẩu
tương đương 51.5% và 56.6% nhập khẩu. Khu vực châu Âu, DNNVV là xương sống của nền kinh
tế, khối doanh nghiệp này tuyển dụng 87 triệu công dân châu Âu, mỗi giây tạo ra một việc làm mới
và đóng góp 60% GDP của Liên minh châu Âu (Skokan et al., 2013). Vai trò của DNNVV cũng
được thể hiện ở các nước đang phát triển tại châu Á, Số DNNVV tại Malaysia chiếm 99.2% trong
số doanh nghiệp được thành lập mới và chiếm 65.1% lực lượng lao động được tuyển dụng (Hin et
al., 2013). DNNVV Thái Lan chiếm tỷ trọng lớn trong các doanh nghiệp được thành lập tại các khu
vực khác nhau, riêng trong khu vực sản xuất, DNNVV chiếm 93.8% doanh nghiệp được thành lập
trong đó doanh nghiệp nhỏ chiếm 76% và doanh nghiệp vừa chiếm 17.8% (Chittithaworn et al.,
2011). Đối với một đất nước đang phát triển như Việt Nam thì DNNVV chiếm đa số và có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế. Tính đến tháng 4/2017, Việt Nam có khoảng 612,000 doanh nghiệp
đang hoạt động (Thành Đạt, 2017). Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chiếm khoảng 98%
tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp vừa chiếm 2.2%, doanh nghiệp nhỏ
chiếm 29.6%, và còn lại 68.2% là siêu nhỏ, số doanh nghiệp này đang đóng góp hơn 40% GDP và
sử dụng tới 51% lao động xã hội (Doanh nghiệp Việt Nam, 2016).
DNNVV có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế các nước nhưng đây là loại hình
doanh nghiệp dễ bị tổn thương thể hiện qua tỷ lệ phá sản, ngưng hoạt động cao. Theo số liệu năm
2017, số lượng doanh nghiệp của Việt Nam tạm ngừng hoạt động là 60,553, chiếm gần 48% số
lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong cùng năm (Tổng cục Thống Kê, 2017), trong số
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động có đến 92% là doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng (Oanh
Vũ, 2017). Không chỉ tại Việt Nam, sự thất bại của DNNVV cũng là một vấn đề phổ biến trên thế
giới, như tại Thái Lan có 62% doanh nghiệp đóng cửa năm 2002 (Veskaisri et al., 2007); trường
hợp của Malaysia, tỷ lệ 60% doanh nghiệp tuyên bố phá sản sau năm đầu tiên hoạt động (Hin et
al., 2013). DNNVV tại châu Âu bị ảnh hưởng đáng kể bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2009, nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ có 50% doanh nghiệp tồn tại năm năm đầu tiên và cuộc khủng
hoảng này làm cho số lượng doanh nghiệp tồn tại ngày càng ít hơn (Skokan et al., 2013). Có nhiều
nguyên nhân tạo ra sự thất bại của DNNVV được các nhà quản lý và các nhà chuyên môn nêu ra
như thiếu hành lang pháp lý, thiếu chính sách hỗ trợ của Chính phủ, kỹ năng sinh tồn và năng lực
hoạch định của DNNVV (Vũ Phương, 2017). Một nghiên cứu khác cũng cho rằng có nhiều yếu tố
liên quan đến sự thất bại của DNNVV nhưng chủ yếu do yếu tố quản trị doanh nghiệp, kinh nghiệm
của nhà quản trị cấp cao và môi trường kinh doanh phức tạp. Theo thống kê của Dun và Bradstreet
(được trích dẫn trong Mohamad & Ching, 2009), 88.7% tất cả các thất bại kinh doanh là do sai lầm
trong quản lý kinh doanh, trong đó các nguyên nhân chính bao gồm thiếu năng lực quản trị (46%),
kinh nghiệm mất cân bằng hoặc thiếu kinh nghiệm quản trị (30%), và thiếu kinh nghiệm phù hợp
với hàng hóa hoặc dịch vụ (11%).
Sự thất bại của DNNVV so với doanh nghiệp lớn có thể được giải thích dựa trên nhiều lý do
khác nhau nhưng cần thiết phải tìm hiểu tại sao cùng là DNNVV nhưng doanh nghiệp này lại thành