vọng. May thay có tướng quân Chu Văn Tiếp chiêu binh mãi mã lập căn cứ
trong núi Trà Lang đem quân cứu em cùng mấy trăm binh sĩ. Nay em tìm
đường về đây là theo lệnh Chúa thượng Nguyễn Phúc Ánh, đi tìm các
tướng mời khởi binh khôi phục lại thành Sài Côn.
Lương lấy làm lạ hỏi:
- Sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chúa tôi thất lạc mỗi người một ngả.
Nay chúa đang ở đâu mà em vâng lệnh chúa được?
Phước lấy mật thư của Nguyễn Phúc Ánh trao cho hai anh rồi nói:
- Chúa chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, cũng không rõ các tướng đang ẩn
náu nơi đâu, nên người mới sai kẻ tâm phúc mang mật thư ra Phú Yên gọi
tướng quân Chu Văn Tiếp đem binh vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập.
Hiện Chu tướng quân đáng giấu quân ở cánh rừng phía Tây thành Sài Côn.
Em mới lãnh mạng đi tìm các tướng hội quân theo lệnh Chu tướng quân
đánh giặc.
Khương mừng rỡ hỏi:
- Chu tướng quân có bao nhiêu binh mã?
Phước đáp:
- Có một ngàn năm trăm binh mã.
Khuông lắc đầu nói:
- Quân Đỗ Nhàn Trạp có tới bốn ngàn người lại trong thành Sài Côn vững
chắc, lương tháo dồi dào thì một ngàn năm trăm quân của Chu Văn Tiếp là
sao đánh thành cho được.
Nghe Khuông nói xong, cụ già chủ nhà cười hỏi:
- Sau năm trước Nguyễn Huệ chỉ dùng có năm ngàn quân mà trong một
đêm đánh thắng hai vận quân của Tống lão tướng quân. Đến nỗi anh em
phá ly tán sáu năm mới gặp mặt là vi đâu?
Khuông quay sang cụ già đáp:
- Lúc ấy do cha tôi lầm kế giương Đông kích Tây của Nguyễn Huệ nên mới
bại binh.
Cụ già lại nói:
- Vậy tại sao nay không dùng lại kế ấy để dùng một ngàn năm trăm quân
Chu Văn Tiếp đánh bố ngàn quân của Đỗ Nhàn Trập. Việc này còn dễ hơn