sau chuyện đó, tôi tập cho mình thói quen vuốt tóc cậu ngay sau khi cậu
chìm vào giấc ngủ, hôn lên má, lên trán và mí mắt cậu. Cậu vẫn tỉnh dậy
giữa những cơn thở gấp đẫm nước mắt, đôi mắt hoảng loạn tìm kiếm những
điều cậu đã đánh mất. Nhưng dẫu sao thì cậu cũng làm những điều đó trong
im lặng.
Đôi lúc, khi Day im lặng như vậy, tôi lại băn khoăn không biết cậu đã
phải nỗ lực đến thế nào mới giữ cho mình tỉnh táo. Ý nghĩ đó làm tôi sợ
hãi. Tôi không thể chịu nổi nếu mất cậu. Tôi vẫn tự thuyết phục mình đó là
vì những lý do thực tế: chúng tôi khó có thể sống sót một mình tại thời
điểm này, và các kỹ năng của cậu bổ sung cho kỹ năng của tôi. Bên cạnh
đó… tôi cũng chẳng còn ai để bảo vệ nữa. Tôi cũng chia sẻ với cậu những
giọt nước mắt, mặc dù tôi luôn đợi tới lúc cậu ngủ rồi mới khóc. Đêm qua
tôi đã khóc cho Ollie. Tôi cảm thấy hơi ngốc nghếch vì lại khóc cho con
chó của mình trong khi quân Cộng hòa giết gia đình tôi, nhưng tôi vẫn
không thể kìm lòng được. Anh Metias là người đã đưa nó về nhà, một quả
bóng trắng muốt với những bàn chân khổng lồ, đôi tai cụp xuống, đôi mắt
nâu ấm áp, sinh vật ngọt ngào và vụng về nhất mà tôi từng thấy. Ollie là
cậu bé của tôi, và tôi đã bỏ nó lại.
“Cậu mơ thấy gì thế?” tôi thì thầm với Day.
“Chẳng có gì đáng nhớ cả.” Day trở mình, cau mày khi vô tình cọ cái
chân đau vào tường. Cơ thể cậu căng lên vì cơn đau, và tôi biết rõ cánh tay
bên dưới lớp áo sơ mi của cậu rắn chắc đến mức nào, những múi cơ chắc
nịch có được từ đường phố. Một hơi thở nặng nhọc thoát ra từ môi cậu.
Cách cậu đẩy tôi dựa vào bức tường trong con hẻm đó, sự khao khát
trong nụ hôn đầu của cậu. Tôi thôi tập trung vào miệng cậu và xua ký ức đó
ra khỏi đầu, không khỏi xấu hổ.
Cậu hất đầu về phía cửa toa tàu. “Chúng ta đang ở đâu vậy? Chúng ta ắt
hẳn phải gần đến nơi rồi, đúng không?”