gần gũi với tiếng Mông Cổ, và không khó để chuyển thành chữ viết
cho tiếng Mông Cổ. Có nguồn gốc từ bảng chữ cái tiếng Syriac
được các tu sĩ truyền bá Ki-tô giáo mang tới cho các bộ lạc trên thảo
nguyên, chữ viết được tạo thành từ các chữ cái thay vì ký tự, nhưng
được viết theo chiều dọc từ trên xuống thành cột giống tiếng Hoa.
Để theo dõi các bộ luật, Thành Cát Tư Hãn đặt ra vị trí quan xử
án tối cao cho em trai nuôi Shigi-Khutukhu, cậu bé người Tatar với
khuyên tai và khuyên mũi bằng vàng mà ông đã tìm thấy và gửi mẹ
nuôi. Thành Cát Tư Hãn giao cho cậu nhiệm vụ “trừng phạt bọn trộm
cắp và tìm sự thật sau những lời dối trá,” cũng như ghi lại các quyết
định của ông trên giấy trắng cột lại thành các tập sách xanh, màu
sắc linh thiêng của Thanh thiên Vĩnh hằng. Trong bộ máy hành
chính của Thành Cát Tư Hãn, chữ viết và việc duy trì luật pháp có
quan hệ gần gũi với nhau; điều này có lẽ giải thích vì sao “sách”
trong tiếng Mông Cổ (nom) có nguồn gốc từ từ nomos trong tiếng Hy
Lạp, có nghĩa là “luật pháp.” Trong thế giới Mông Cổ thế kỷ mười ba,
pháp luật và chữ viết là một và như nhau.
Nhằm duy trì lòng trung thành và sự gắn kết trong lòng dân
chúng, Thành Cát Tư Hãn cải tiến việc bắt con tin, một tập quán
chính trị cổ xưa. Ông yêu cầu rằng thủ lĩnh của mỗi đơn vị một ngàn
và một vạn người phải gửi con trai và bạn nối khố của chúng cho
riêng ông để ông lập thành một quân đội một vạn người của riêng
mình. Thay vì đe doạ xử tử chúng nếu họ hàng phạm tội, Thành Cát
Tư Hãn áp dụng một chiến lược hữu dụng hơn nhiều. Ông đào tạo