Vì “người Do Thái là những kẻ cực kỳ ác độc,” những tín đồ Ki-tô
giáo buộc tội họ đã mang cơn giận của người Mông Cổ trút xuống
những con chiên vô tội. Theo ghi chép vô lý của Paris, các thủ lĩnh
Do Thái ở châu Âu “đã bí mật tổ chức buổi gặp mặt ở một nơi bí
mật.” “Kẻ thông thái và quyền lực nhất trong số chúng” phát biểu,
giải thích rằng “những kẻ ngoại đạo của các bộ tộc ở Israel, những
kẻ từng bị cô lập, nay đã tới để cùng chúng ta thống trị cả thế giới.
Thương đau của chúng ta trước đây càng nặng nề và dai dẳng, thì
vinh quang của chúng ta sau này sẽ càng vĩ đại hơn.” Người này
được cho là đã yêu cầu người Do Thái đón tiếp quân Mông Cổ
“bằng các món quà quý giá, và chào đón họ một cách long trọng
nhất: họ cần ngô, rượu vang, và vũ khí.” Bởi vậy, người Do Thái thu
thập “tất cả kiếm, dao găm và vũ khí mà họ có thể mua được, và để
che giấu sự phản bội của mình, đã giấu chúng trong các thùng kín.”
Không còn lời giải thích nào khác hợp lý hơn, các tín đồ Ki-tô giáo
coi đây là bằng chứng của “sự phản bội và lừa lọc của người Do
Thái.” Họ liền lập tức bị đưa ra xét xử, và phải nhận án tù chung
thân hoặc bị giết bằng chính thanh kiếm của mình.
Dù câu chuyện này nghe rất phi lý và thiếu căn cứ, nó đã gây
hậu quả vô cùng nghiêm trọng khắp châu Âu. Dù không thể đánh bại
quân Mông Cổ, những kẻ đe doạ biên giới nền văn minh của họ,
người châu Âu vẫn có thể tiêu diệt người Do Thái – kẻ thù tưởng
tượng của họ ở ngay trên quê nhà. Ở tất cả các thành phố từ York
tới Rome, các đám đông Ki-tô giáo giận dữ tấn công khu vực người
Do Thái sinh sống, với mong muốn trừng phạt họ bằng các cách