sách, một loạt các nghề khác lại tham gia để làm mực, sao chép
chữ, minh họa, vẽ màu, và đóng gáy da – một bước đã lại đi qua
nhiều công xưởng khác.
Dùng giấy thay da thuộc là một phát minh của người Trung Hoa
đã được châu Âu biết tới nhưng ít khi sử dụng trước thời Mông Cổ.
Nó đòi hỏi người làm phải có nhiều kỹ năng hơn nhưng tốn ít bước
hơn, nên nhìn chung trong cả quá trình sẽ tốn ít năng lượng và công
sức hơn. Người làm giấy nấu giẻ cũ xé vụn và các vật liệu sợi khác,
nhúng khung vào chum để bọc lớp sợi ở ngoài, cho tiếp xúc với chất
hóa học, rồi phơi khô.
Nhu cầu giấy tăng cùng với sự phổ biến của in ấn. Một trong
công việc tốn công sức nhất trong xã hội trung đại là sao chép bản
thảo và văn bản, vốn được làm bằng tay trong các tu viện kiêm nhà
máy sách nơi các nhà chép sử tỉ mẩn làm việc cả ngày trong phòng
sao chép. Bên cạnh chi phí cho các bữa ăn đạm bạc và sinh hoạt cơ
bản, công việc này không được trả công và tiền thu được dùng cho
các việc khác trong nhà thờ. Johannes Gutenberg hoàn thành việc
chuyển đổi sau khi in ra hai trăm cuốn Kinh Thánh vào năm 1455, và
bắt đầu cuộc cách mạng in ấn và thông tin ở phương Tây. Công
nghệ mới biến ngành sách tương đối nhỏ hẹp thành một trong
những lực lượng hùng mạnh nhất trong đời sống công cộng. Nó
kích thích sự hồi sinh của văn học Hy Lạp cổ điển, sự phát triển
ngôn ngữ viết của các tiếng địa phương và của chủ nghĩa dân tộc,
sự bùng nổ Cải cách Tin Lành, sự ra đời của khoa học, và gần như