phải đấu tranh để giành vị trí trong gia đình. Nếu cô may mắn, hai
người phụ nữ có lẽ đã sống trong hai ger riêng biệt, loại nhà lều có
mái vòm làm bằng vải dạ buộc quanh khung lưới, nhưng ngay cả
nếu không sống cùng ger, hằng ngày họ cũng phải sống gần nhau.
Ha Nguyệt Luân lớn lên ở vùng thảo nguyên rộng rãi, nơi từ bất
kỳ hướng nào cũng có thể nhìn thấy đất đai mênh mông, và là nơi
hàng đàn đông đúc ngựa, bò sữa, cừu, và dê ăn cỏ và được vỗ béo
vào mùa hè. Cô đã quen với chế độ ăn nhiều thịt và sữa rất ngậy và
phong phú do cuộc sống trên thảo nguyên mang lại. Ngược lại, bộ
lạc nhỏ của người chồng mới của cố bám trụ ở rìa phía bắc của thế
giới chăn gia súc, nơi các thảo nguyên tiếp giáp với các ngọn núi
rậm rạp cây cối, thiếu đồng cỏ để nuôi các đàn gia súc lớn. Giờ cô
phải ăn loại thức ăn khó ăn hơn của thợ săn: sóc macmôt, chuột,
chim, cá, và thỉnh thoảng có thêm dê hay linh dương. Giữa các bộ
lạc thảo nguyên, lịch sử người Mông Cổ không hề lâu đời và huy
hoàng. Họ bị coi là những kẻ bới rác, tranh giành các con mồi nhỏ
với loài sói, và khi có cơ hội thì trộm thú vật và phụ nữ từ những
người chăn gia súc trên thảo nguyên. Với họ, Ha Nguyệt Luân chỉ
được xếp hơn tài sản cướp được một chút.
Theo câu chuyện hay được thuật lại, đứa con đầu lòng của Ha
Nguyệt Luân được cho là đã vật lộn để tới với thế giới này khi trong
bàn tay phải đang nắm chặt một vật gì đó bí ẩn và mang điềm gở.
Một cách nhẹ nhàng, nhưng đầy lo lắng, người mẹ trẻ cậy dần từng
ngón tay của cậu bé ra, và tìm thấy một cục máu đông đen lớn bằng