đấu. Ông không bao giờ đánh mất cái giọng lơ lớ của mình, ông chẳng bao
giờ đi bầu cử hoặc nghe nhạc Mỹ, nhưng ông lại trở thành một người hâm
mộ cuồng nhiệt của đội Yankee.
Cuối thập niên chín mươi, một tập đoàn bảo hiểm đề nghị mua lại công
ty của ông bà tôi. Đó là, theo lời tất cả mọi người, một đề nghị khá tốt, vậy
là bà tôi yêu cầu họ tăng gấp đôi giá lên. Chắc chắn là họ đã cò kè mặc cả
rất nhiều, nhưng ngay cả tôi cũng có thể bảo với tập đoàn đó rằng cò kè với
bà tôi chỉ tổ tốn thời gian. Cuối cùng họ trả cho bà những gì bà muốn và
ông bà tôi - theo truyền thống, bán căn hộ của họ và chuyển đến Florida.
Họ mua một ngôi nhà nhỏ trên bờ Vịnh, một kiệt tác mái bằng xây năm
1949 bởi một kiến trúc sư - lẽ ra đã trở nên nổi tiếng nếu ông ta không chết
đuối đúng vào năm ấy. Trần trụi và uy nghi với chất liệu thép và bê tông
đúc, tọa lạc trên một triền dốc trơ trọi trông thẳng ra Vịnh, nó không phải
ngôi nhà ta vẫn hình dung cho một cặp vợ chồng nghỉ hưu, nhưng họ đâu
có chuyển xuống miền Nam để héo tàn dưới ánh mặt trời rồi chết. Hầu như
ngày nào ông tôi cũng ngồi trước máy tính, chơi cờ vua online với mấy ông
bạn già. Bà tôi, buồn chán vì ăn không ngồi rồi trong mấy tuần sau khi
chuyển về, tự tạo ra việc làm cho mình tại một trường đại học ngoại trú ở
Sarasota, dạy văn học Nga cho những sinh viên rám nắng, có vẻ như cánh
này (theo như một lần tôi ghé thăm lớp học) liên tục phát hoảng vì sự báng
bổ của bà, kiểu châm biếm nặng nề của bà, và khả năng bà thuộc làu làu
những vần thơ Pushkin.
Tối nào ông bà tôi cũng dùng bữa trên sân thượng, trông thẳng qua
những vũng nước tối om về phía Mexico. Họ ngủ để mở mọi cửa sổ, lũ
bướm đêm đập cánh vào tấm lưới chắn. Không giống những người nghỉ
hưu khác tôi gặp ở Florida, họ không lo lắng gì về tội phạm. Cửa trước
thường xuyên không khóa và không có hệ thống báo động nào. Họ không
thắt dây an toàn khi ở trong xe, họ không dùng kem bảo vệ khi ra ngoài
nắng. Họ quả quyết rằng chẳng gì có thể giết được mình ngoại trừ chính
Chúa, mà họ thậm chí còn chẳng hề tin vào ông ta.