họa hình vượn mẹ ở chòm gai góc để giữ lấy bóng hình, tìm dấu chồn trên
làn băng mỏng để bảo lưu dấu vết!
Tôi suốt ngày nhàn tản, nhân dịp này mà gửi niềm cảm khái; qua tin
nhạn ở lối trạm mà thuật lại câu chuyện của hải khách Doanh Châu (4),
ngồi chèo khoeo dưới bóng liễu, phun miếng cơm của người Đông Dã đất
Tề (5); bèn cầm quản bút cùn, mở tập giấy hẹp, viết ra cuốn "Đông như
kiến điểu thám kỳ án" đánh bạo làm cái việc vừa gợi ý vừa răn khuyên.
Nào ngờ các thứ mừng, cười, giận, mắng đều xuất hiện. Bỗng như giữa
rừng đuổi thỏ mất tăm, bốn bề mờ mịt; chợt như vách phấn vẽ rồng dựng
vẩy, đường nét rõ rành. Trong cấu tứ cảm thấy khá tốn tâm trí. Than ôi! Về
ngụ ý thì đại để hoang đường như văn Trang Chu (6), về lập luận thì theo
đuổi cách viết hư hư thực thực như bút pháp họ Nguyễn. Vạc vua Vũ ư?
Sừng Ôn Công ư? Tranh vẽ Ngô Đạo Tử ư? Tôi đâu dám sánh!
-----
(1) Vua Hạ Vũ đúc chín cái vạc và ghi tên sông núi chín châu lên trên
đó.
(2) Ôn Kiện dùng sừng tê giác soi các loài thủy quái.
(3) Ngô Đạo Huyền người thời Đường, có tài hội họa.
(4)Doanh Châu: cõi tiên.
(5)Đông Dã đất Tề: ý nói quê kệc không đáng tin.
(6)Trang Chu: tức Trang Tử, một triết gia Trung Quốc thời cổ.
Nguyên tuần phủ Nam Định, Cổ Sơn Trương Thương Nham viết lời
tựa.
ĐỀ TỪ