bình thường như bao kẻ khác, theo ta học chữ, ngoan ngoãn ngồi nghe bà
lão ta đây kể chuyện cổ nhân. Nhắc tới cũng lạ, nó không bằng Lâm di
nương xưa kia hiểu biết chữ nghĩa lại biết hội họa, cũng không như con bé
Hoa thông minh mua vui dỗ dành ta vui vẻ, nhưng ta lại cảm thấy thân thiết
với nó nhất.” Nói rồi lại rầu rĩ.
“Đó là bà có tiến bộ, chịu thiệt nửa đời người, rốt cục cũng biết nhìn
người là phải nhìn vào cái bên trong, bên ngoài có khoa trương cũng không
quan trọng bằng nhân phẩm đôn hậu. Bà cũng ở một mình lâu quá rồi, hôm
nay có đứa bé mỗi ngày làm bạn, dù khởi đầu có thế nào đi nữa thì cũng
không nén được mà muốn yêu thương nó.” Khổng ma ma tầm mắt sắc bén,
một câu đã nói trúng.
Thịnh lão thái thái chỉ về phía bà mắng: “Cái bà già này, cái miệng hung
hăng này, sao không chết quách trong cung đi? Còn ra ngoài hại người làm
gì nữa.”
Khổng ma ma trừng mắt: “Cái này là lẽ tự nhiên, chưa từng nghe thấy
người mạnh khỏe đoản mệnh bao giờ, chả nhẽ tôi còn tai vạ đến trăm năm
sao?”
Nói xong, hai bà lão lại cười rộ lên.
Cười hồi lâu, Thịnh lão thái thái một bên lau nước mắt, một bên ngoái cổ
về phía Lê Hoa Thụ nhìn, bị Khổng ma ma kéo lại: “Đừng nhìn nữa, ồn ào
cũng không làm cháu bà tỉnh ngủ đâu, nó không phải uống một chén thuốc
an thần rồi sao? Nếu tỉnh sớm thì sẽ có tiếng động, mau trở lại đây, tôi có
lời muốn nói với bà.”
Thịnh lão thái thái ngẫm cũng phải, liền quay lại, Khổng ma ma nghiêm
mặt nói: “Tôi là dân nữ Sơn Đông, bà là thiên kim hầu phủ Kim Lăng, nhờ
Tĩnh An hoàng hậu mà quen biết lâu nay âu cũng là duyên phận, có mấy lời
tôi muốn khuyên bà.”