Đúng vậy, khi được đo lường bằng số người chết tuyệt đối, Chiến tranh
Dani quả thật tí hon. Tuy nhiên, các quốc gia trong Thế chiến II có dân số
đông hơn rất nhiều và số nạn nhân tiềm tàng lớn hơn rất nhiều so với hai
liên minh tham gia vào chiến tranh Wilihiman-Widaia. Các liên minh này
có tổng cộng khoảng 8.000 người, trong khi những nước tham chiến trọng
yếu trong Thế chiến II có dân số từ hàng chục triệu đến gần một tỷ. Số tử
vong tương đối trong Chiến tranh Dani - số người Dani bị giết trong tỷ lệ
với tổng dân số liên quan - xấp xỉ hoặc hơn tỷ lệ tử vong mà các nước Mỹ,
châu âu, Nhật hay Trung Quốc phải gánh chịu trong các cuộc thế chiến. Ví
dụ, 11 cái chết mà hai liên minh người Dani phải gánh chịu trên chỉ một
mặt trận miền nam Gutelu, trong 6 tháng từ tháng 4-9/1961, tương ứng
khoảng 0,14% dân số của hai liên minh. Con số này cao hơn phần trăm tử
vong (0,1%) ở trận chiến đẫm máu nhất tại mặt trận Thái Bình Dương trong
Chiến tranh Thế giới Thứ hai: cuộc chiến kéo dài ba tháng để giành lấy
Okinawa, sử dụng máy bay ném bom và máy bay kamikaze cùng với pháo
binh, máy phun lửa, theo đó khoảng 264.000 người (23.000 lính Mỹ,
91.000 lính Nhật và 15.000 dân thường Okinawa) đã thiệt mạng, trong tổng
số dân Mỹ/Nhật/Okinawa lúc bấy giờ vào khoảng 250 triệu người. 125 đàn
ông, phụ nữ và trẻ em bị giết trong vòng một giờ ở cuộc thảm sát Dani
ngày 4/6/1966 tương ứng với 5% dân số bị nhắm đến (khoảng 2.500
người), các nhóm phương nam của Liên minh Gutelu. Để bì được với con
số phần trăm này, quả bom hạt nhân Hiroshima hẳn phải giết đến 4 triệu
người thay vì 100.000 người Nhật và cuộc tấn công vào Trung tâm Thương
mại Thế giới hẳn phải giết đến 15 triệu người Mỹ thay vì 2.996.
Theo các tiêu chuẩn thế giới, Chiến tranh Dani trở nên tí bé nhỏ chỉ vì số
dân Dani chịu rủi ro bị giết cũng khá ít. Theo tiêu chuẩn dân số địa phương
liên quan, Chiến tranh Dani trở nên khổng lồ. Ở chương tiếp theo, chúng ta
sẽ thấy rằng kết luận đó cũng phù hợp với chiến tranh truyền thống nói
chung.