QUÁCH TẤN
Sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (24 janvier 1910) ở làng Trường Định, huyện Bình Khê (Bình Định). Hiện làm phán sự tòa sứ
Nha Trang. Ông thân là người Tây học, bà thân là người Hán học. Bắt đầu học chữ Hán, năm 11 tuổi mới học chữ quốc ngữ. Học trường
Quy Nhơn. Có bằng thành chung.
Đã xuất bản: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941).
Đêm đã khuya, tôi ngồi một mỉnh xem thơ Quách Tấn. Ngoài kia có lẽ trăng sáng lắm. Nhưng
trời về thu, khí trời lạnh lạnh, cửa sổ bên bàn viết đóng kín. Ngọn nến trên bàn tỏa ra một bầu ánh
sáng chỉ đủ sáng chỗ tôi ngồi. Chung quanh tối cả. Tối và im. Một thứ im lặng dày đặc. Trong ấy
có muôn ngàn thứ tiếng ta không nghe.
Lúc này chính là lúc xem thơ xưa. Tôi lắng lòng tôi để đón một sứ giả đời Đường, đời Tống. Đời
Đường có lẽ đúng hơn. Đời Đường mới có cái âm u ấy. Thơ Tống dầu xem được ít tôi nhớ hình như
quang đãng và bình yên, không như thế.
Theo gót nhà thơ, tôi đi dần vào một thế giới huyền diệu, ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất
êm. Những tiếng khóc rộn ràng, những lời reo vui vẻ đều kiêng. Một sức mạnh vô hình, rất mềm
mại nhưng rất chắc chắn nặng đè lên hết thảy. Tình cảnh ở đây không còn là những tình cảnh ta
vẫn thường quen biết. Tình cảnh ở đây đã biến thành một thứ hương mầu nhiệm. Nó quyện lấy
mình ta và chân ta tự nhiên bước theo một điệu nhịp nhàng dìu dặt. Ta không thấy gì, ta không
nghe gì. Nhưng ta biết thế giới này giàu sang lắm. Chốc chốc một cảnh rực rỡ vụt hiện ra trước
mắt ta rồi vụt biến đi:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
Ta có thể lơ đãng không thấy rõ sương trên bến Phong Kiều, trăng trên dòng Xích Bích. Không