xuống núi đã có thể thống lĩnh toàn quân giành chiến thắng, xoay chuyển
cục diện, có thể thấy việc bàn binh trên giấy, dùng miệng luận chiến cũng
chưa chắc vô dụng. Tuy ta không dám so sánh với các tiền bối Thiên Môn
ấy, nhưng cũng phải thử một lần mới cam lòng. Có điều ta không dám lấy
tính mạng quân sĩ ra để thử, vì vậy muốn khích Du Trọng Sơn so tài với ta
trên thao trường, như thế vừa có thể lập uy trong quân, cũng xem như một
lần kiểm nghiệm năng lực cầm quân của mình. Nếu ta thua Du Trọng Sơn,
dù y có giao Tiễu Oa Doanh cho ta, ta cũng không dám đem tính mạng các
tướng sĩ đi mạo hiểm. Chỉ khi thắng được Du Trọng Sơn, ta mới có lòng tin
chỉ huy toàn quân. Vì vậy với ta lần diễn tập này là một cuộc khảo nghiệm
tất yếu phải có.”
Tiêu bá ngẫm nghĩ gật gù, không còn can ngăn quyết định của Vân
Tương, chỉ hỏi: “Công tử cần lão nô làm gì?”
Vân Tương trải bút giấy, viết vội một số tên sách, sau đó đưa cho Tiêu
bá: “Lão mau đi mua số sách này về, ta phải xem xem cổ nhân huấn luyện
và chỉ huy thủy quân như thế nào. Bắt đầu từ bây giờ cho đến lúc chính thức
diễn tập còn một tháng, mong rằng vẫn kịp.”
Những cơn gió nghịch chiều sắc lẹm như dao tạt mặt, cuốn tung bụi mù
khiến người ta khó mở to mắt. Dẫu vậy, Thư Á Nam chẳng buồn để tâm,
nàng quất roi thúc ngựa liên tục, chạy một mạch về hướng Đông Nam, hoàn
toàn không tiếc sức! Thư Á Nam đã trốn khỏi Ngõa Thích được ba ngày,
trên thảo nguyên rộng lớn không còn nhìn thấy bóng doanh trại của người
Ngõa Thích, nhưng nàng vẫn không dám dừng nghỉ, chỉ mong có thể phi
nhanh hơn, nhanh hơn nữa.
Ở cuối chân trời sau lưng Thư Á Nam, có một thớt ngựa cô độc cứ đuổi
riết theo nàng. Tuy không nhìn rõ bộ dạng, cách ăn bận của nài ngựa, nhưng
nàng biết đó là ai. Lần đầu tiên trông thấy gã tùy tùng bên cạnh Lãng Đa
nàng đã cảm thấy y giống một con sói, song lại hơn loài sói mấy phần cẩu
tính, vì vậy y một mực trung thành với chủ nhân mình.