quân cờ giơ cao, tập trung nhìn vào bàn cờ, do dự mãi không thể đặt xuống.
Đối thủ của lão là một thư sinh trẻ bộ dạng phóng túng, đang nửa say nửa
tỉnh ngả người dựa ghế, cầm bình hồ lô uống rượu một mình, đối lập hoàn
toàn với vẻ căng thẳng của lão già. Liễu Công Quyền không lấy làm lạ trước
tác phong buông thả của y, nhưng lại kinh ngạc nhìn lão già, buột miệng
kinh hô: “Phí chưởng quầy!”
Lão già áo gấm đang cầm cờ ngẫm nghĩ giật mình, ngẩng đầu nhìn ra
Liễu Công Quyền cũng lấy làm bất ngờ, vội đứng dậy hành lễ nhưng bị Liễu
Công Quyền ấn vai hỏi: “Sao Phí chưởng quầy cũng lại ở đây?” Lão già ái
ngại cười: “Nói ra hổ thẹn, lão hủ cũng thích đánh cờ, lại rất tự tin với tài cờ
của mình, sớm nghe trong thành Kim Lăng xuất hiện một cao thủ trẻ tuổi
nên mộ danh tới thỉnh giáo. Ai ngờ hơn nửa tháng nay, lão hủ ván nào cũng
bại, đến tận khi y nhường lão hủ bốn quân ta mới có cơ hội thắng, đúng là
thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân mà!”
Liễu Công Quyền kinh ngạc nhìn về hướng thư sinh đang say, lão
không bất ngờ về tài đánh cờ của thư sinh, mà thấy kỳ lạ trước mối quen biết
giữa Phí chưởng quầy của Thông Bảo tiền trang và y, lòng chợt dâng cảm
giác chẳng lành, lờ mờ nghĩ rằng e không phải trùng hợp.
“Diệp nhị công tử?” Liễu Công Quyền hai mắt sáng quắc hàn quang,
nhìn chằm chằm vào thư sinh. Thư sinh đủng đỉnh nhấp một ngụm rượu, con
mắt đờ đẫn liếc nhìn Liễu Công Quyền, cười phê pha: “Sớm nghe danh Liễu
gia tinh thông kỳ đạo, tiểu sinh đang sầu vì không biết lúc nào mới có thể
đấu với Liễu gia một ván đây!”
Liễu Công Quyền thấy cờ đen của thư sinh đã chiếm sạch ưu thế, cờ
trắng của Phí chưởng quầy chẳng khác nào con thú bị vây khốn đang cố cầm
cự, vừa nhìn bố cục cờ đen, Liễu Công Quyền lại càng lộ vẻ kinh ngạc, quân
nào quân nấy ăn khớp chặt chẽ, trải khắp bàn cờ nhưng cơ hồ không có một
quân cờ bỏ, đúng là bình sinh hiếm thấy. Liễu Công Quyền nghiêm sắc mặt,
gật đầu nói với thư sinh: “Chọn ngày không bằng gặp ngày, lão hủ hôm nay
sẽ tiếp công tử một ván.”