hội “mở” chỉ dựa vào chủ nghĩa hoài nghi như một cách thức để hoạt động,
bác bỏ và chống lại những sự thật tuyệt đối. Theo những luận điểm mà tôi
đã giới thiệu trong Phần mở đầu, ông kết tội Plato vì đã đóng kín bộ ráo của
chúng ta. Tuy nhiên, ý tưởng lớn nhất của Popper chính là sự thấu hiểu về
khả năng không thể dự đoán được của thế giới - những thứ vốn rất cơ bản,
khắc nghiệt và không thể cứu chữa được, và tôi sẽ dành phần này lại cho
chương nói về dự đoán.
Dĩ nhiên, không dễ dàng gì để “chứng minh sai”, tức là tuyên bố chắc
chắn rằng điều gì đó hoàn toàn sai. Những thiếu sót trong phương pháp
kiểm tra của bạn có thể dẫn đến sai lầm khi đưa ra câu trả lời “không”. Vị
bác sĩ phát hiện ra các tế bào ung thư có thể đã mắc một số biểu hiện ảo
giác do lỗi máy móc; hoặc có thể ông ta là nhà kinh tế học sử dụng đường
cong hình chuông được ngụy trang dưới lớp áo bác sĩ. Người tận mắt
chứng kiến một vụ phạm tội cũng có thể đang trong tình trạng say xin vào
lúc đó. Tuy nhiên, bao giờ bạn cũng tự tin hơn khi kết luận điều gì là sai so
với khi kết luận điều gì là đúng. Không phải thông tin nào cũng quan trọng
như nhau.
Popper đã giới thiệu một cơ chế phỏng đoán và bác bỏ theo nguyên tắc
sau: bạn đưa ra một phỏng đoán (táo bạo) và bắt đầu tìm kiếm một quan sát
nào đó có thể chứng minh mình sai. Đây là giải pháp thay thế cho quá trình
tìm kiếm những ví dụ được sử dụng cho việc chứng thực của chúng ta. Nếu
nghĩ rằng đây là một công việc dễ dàng thì bạn sẽ thất vọng bởi rất ít người
có được khả năng bẩm sinh để thực hiện điều đó. Tôi thừa nhận mình
không phải là một trong số họ; khả năng đó không tự nhiên đến với tôi.
Đếm đến ba
Các nhà khoa học về nhận thức đã nghiên cứu vì sao chúng ta chí có xu
hướng tìm kiếm sự chứng thực; họ gọi tính dễ bị tác động bởi lỗi chứng
thực này là thiên kiến chứng thực (confirmation bias). Có nhiều thí nghiệm
chứng minh rằng người ta chỉ tập trung vào những cuốn sách đã đọc trong
thư viện của Umberto Eco. Bạn có thể kiểm tra một quy tắc nào đó theo