III.
Nói một cách ngắn gọn thì phương pháp mà Vitte được giáo dục cách đây hơn một trăm
năm, sau đó áp dụng cho Sidis, Bar, Wiener, có thể gọi là Giáo dục từ sớm. Nói theo ngôn
ngữ của Vitte-cha, thì đó là giáo dục từ buổi bình minh nhận thức của con trẻ. Tất cả những
người áp dụng phương pháp này đều tin răng giáo dục từ sớm là cơ sở để đào tạo anh tài, và
đây là một niềm tin có căn cứ xác đáng. Nếu nhìn vào lịch sử Hi Lạp có thể thấy Athens là
một nơi mà “Thiên tài nhiều như sao trên trời”, trong khi dân số lại rất ít. Ở vào thời thịnh
vượng cũng chỉ có khoảng 50 vạn người, nhưng trong số đó 4/5 là nô lệ. Năm 490 trước công
nguyên, Vua Darius xứ Parsua, Ba Tư đã đưa 12 vạn binh, 6 trăm tàu chiến chinh phạt
Athens, trong khi quân đội Athens chỉ có không quá 1 vạn người, nhưng kết quả tại trận đại
chiến Marathon, Athens đã thắng, và chỉ bị tổn thất 192 người. Nhìn vào đấy có thể thấy rằng
Athens tuy chỉ là một đô thị nhỏ nhưng có rất nhiều nhân tài. Thực chất, những nhân tài đó
đều là những người được giáo dục từ sớm. Giáo dục từ sớm chính là 1 tập quán của người Hi
Lạp xưa.
Thêm một ví dụ nữa, độc giả hẳn đã từng nghe tên Huân tước Kelvin William
Thomson, nhà vật lý học vĩ đại sau Newton, cũng là một người được giáo dục từ khi còn rất
nhỏ. Cha ông, James Thomson, là con của một nông dân người Scotland di cư sang Ireland
sinh sống, tốt nghiệp đại học Glasgow năm 28 tuổi và được bổ nhiệm làm giảng viên Toán
học tại học viện Hoàng gia Belfast. James Thomson có tất cả 4 người con, 2 con đầu là gái, 2
con trai sau là James và William. (James sinh năm 1822, William sinh năm 1824). Ngay từ
khi sinh con ra, ông nhìn lại nửa cuộc đời mình và quyết định phải giáo dục con ngay từ khi
còn nhỏ. Không ai biết ông có đọc sách của Vitte không, nhưng ông có một điểm chung với
bố của Vitte, đó là bắt đầu dạy con đọc và viết từ khi học nói. Sau đó cùng với vợ dạy các
môn Toán học, Lịch sử, Địa lý và tìm hiểu thiên nhiên. Ngoài việc giảng dạy môn Toán, ông
còn viết sách, vì thế hết sức bận rộn. Hàng ngày ông dạy từ 4h sáng, Chuẩn bị bài giảng và
viết sách, buổi trưa dành thời gian dạy con. Không may, năm 1830 vợ ông qua đời, là một cú
sốc rất lớn với ông và các con. Còn lại một mình, ông vẫn tiếp tục cố gắng nuôi dạy anh em
William. Năm 1933, ông được bổ nhiêm làm giáo sư Toán học tại Đại học Glasgow, nhờ đó
ông có thể sắp xếp cho James (10 tuổi) và William (8 tuổi) tham gia các giờ giảng của mình
và 2,3 giảng viên khác. Kết quả thật đáng mừng, sau 2 năm, các con ông đã được nhận vào
học và đều là những học sinh xuất sắc khiến tất cả mọi người phải ngạc nhiên. Sau này thì ai