sát bản chất của sự vật, tôi nghiên cứu các đặc tính của các thứ đá, của không
khí và của các tầng nước, tôi tìm tòi các quy luật nó cai quản vật chất dày đặc
hay tinh tế, và sau những nghiền ngẫm lâu dài tôi nhận thấy rằng vũ trụ
không phải là đã được cấu tạo như kẻ mạo xưng là Đấng sáng tạo ra nó vẫn
cố gắng làm cho người ta tin; tôi được biết rằng tất cả những cái gì hiện hữu,
là hiện hữu tự bản thân chứ không phải là do sự cao hứng thất thường của
Jéhovah, rằng thế giới tự bản thân là tác giả của mình, và tinh thần tự bản
thân là vị thần của mình. Từ đó, tôi khinh bỉ Jéhovah vì những trò giả mạo
của y, và tôi căm thù y bởi vì y tỏ ra trái ngược với tất cả những gì tôi thấy là
đáng được mong ước và tốt: sự tự do, lòng ham biết, nỗi ngờ vực. Những
cảm nghĩ đó đưa tôi lại gần vị Séraphin. Tôi thán phục Người, tôi yêu mến
Người, tôi sống trong ánh sáng của Người. Khi, cuối cùng, rõ ràng là phải lựa
chọn giữa Người với Kẻ kia, tôi đứng vào phe của Lucifer và chỉ còn có mỗi
tham vọng là được phục vụ Người, mỗi thèm muốn là được chia sẻ số phận
của Người.
“Khi chiến tranh trở nên không sao tránh khỏi, thì Người chuẩn bị nó với
một sự cẩn mật không mệt mỏi và tất cả mọi phương kế của một đầu óc tính
toán. Đem những Ngai thần và những Quản thần biến thành những Chalybes
và những Cyclope
. Người khai thác các ngọn núi biên cương của giang sơn
của Người để lấy sắt, mà Người quý hơn vàng, và rèn vũ khí trong các hang
hốc của Thiên giới. Rồi Người tụ tập trong những khoáng dã hoang vu của
bắc cực hằng hà sa số những thiên thần, vũ trang cho họ, dạy bảo cho họ,
luyện tập cho họ. Mặc dầu được chuẩn bị bí mật, công cuộc mưu đồ đó rộng
lớn quá không tránh khỏi đối thủ được biết tin ngay. Có thể nói rằng y vẫn dự
đoán trước từ lâu và lo sợ cuộc mưu đồ đó, vì y đã biến nơi ở của y thành một